ngày xuân em hãy còn dài
Thơ mừng ngày Nhà giáo Việt Nam hay, ý nghĩa cũng là món quà tinh thần vô giá dành cho các thầy cô giáo bên cạnh tấm thiệp, lời chúc, món quà, bó hoa tươi thắm, hãy cùng tham khảo những bài thơ mừng ngày Nhà Giáo Việt Nam 20 11 dưới đây để chọn được bài thơ hay nhất thay
SKĐS - Trong khi miền Bắc ngày nắng, tạnh ráo, mưa dông ở khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ có khả năng còn kéo dài trong nhiều ngày tới. Đợt mưa kéo dài nhiều ngày qua ở các tỉnh miền Bắc đã kết thúc. Dự báo hôm nay các tỉnh phía Đông Bắc Bộ trời nắng, đêm có
Hãy tưởng tượng một cánh đồng trải dài dọc khe suối, quanh dốc đồi, cỏ lau trắng xóa, những người công nhân làm mía, làm nhà máy đường, tưởng tượng tiếng đàn ghi ta của họ khi đêm xuống, bên đống lửa.
Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em. * Thi cỗ và thi đèn. Trong ngày Tết Trung Thu người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân
Anh sẽ phấn đấu từng ngày để cho em nhiều niềm vui Không *** nói với em rằng đừng yêu ai đợi anh nhé Vì thanh xuân con gái đâu có được bao nhiêu Chỉ mong em sẽ hiểu anh yêu em thật nhiều Anh đã chắc chắn một điều không có ai yêu em bằng anh Hãy tin anh sẽ dắt em đi hết con đường phía trước Dù đoạn đường ấy có dài hay còn nhiều chông gai
mimpi bertemu ayah yang sudah meninggal togel. Trao duyên là một trong những đoạn trích hay nhất trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đề bài phân tích 18 câu thơ đầu bài trao duyên thường xuyên xuất hiện trong các bài kiểm tra hoặc kì thi học kì. Để có thể làm bài đạt điểm cao, các em học sinh hãy tham khảo bài phân tích dưới đây mẫu Phân tích 18 câu thơ đầu bài trao duyênThân bàiKết bàiVăn mẫu Phân tích 18 câu thơ đầu bài trao duyên Mở bài Nguyễn Du tự là Tố Như, ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc thời lê – Trịnh. Thuở nhỏ ông sống trong nhung lụa nhưng gia cảnh cũng có phần sa sút. Đã có thời gian ông phải về Tiền hải quê vợ để sống, sau này nếm đủ mùi tàn khổ của cuộc đời. Hoàn cảnh là thế nhưng ông lại cực kỳ uyên bác, tài hoa. Ông được mệnh danh là đại thi hào dân tộc với rất nhiều tác phẩm để lại cho đời. Một trong những tác phẩm nổi tiếng lưu truyền sử sách chính là Truyện Kiều nói về biến cố của cuộc đời cô kiều. Trong đó, phải kể đến đoạn trích Trao Duyên, ở 18 câu thơ đầu là lời cậy nhờ của Thúy Kiều đến Thúy Vân thay mình kết duyên cùng Kim Trọng. Đoạn trích đã để lại nhiều xúc động trong lòng độc giả về nàng Kiều nặng tình nghĩa. Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim , Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên! Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Thân bài Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Gia quyến gặp biến cố, để chuộc cha, Kiều đành phải bán thân lấy tiền chuộc cha. Tuy nhiên, nàng vẫn còn đau đáu mối tình dành cho Kim Trọng. Chính vì vậy, nàng muốn se duyên Thúy Vân với Kim Trọng để phần nào an tâm khi ra đi. Khi nhờ cậy Thúy Vân, Thúy Kiều xuống nước và cầu xin em hãy đồng ý với nguyện vọng của mình. Theo đó, động từ “Cậy” đồng nghĩa với nhờ nhưng cũng bao hàm gửi gắm, mong đợi và tin tưởng về sự giúp đỡ của Thúy Vân. Đây là động từ mạnh, cho thấy sự nhún nhường, sự mong mỏi và chân thành của Thúy Kiều khi se duyên cho em. Đặc biệt, khi vế sau là “Chịu lời”, cho thấy Thúy Kiều đang đưa Thúy Vân vào thế phải chấp nhận, không thể từ chối và mang sắc thái nài nỉ, ép người nhờ cậy. Như vậy, tính chất câu chuyện trở nên rất quan trọng và thực sự đối với Thúy Kiều mà nói đây là việc quan trọng nên cô mới tin tưởng, ép Thúy Vân phải nhận. Phân tích 18 câu thơ đầu bài trao duyên – Đặc biệt, câu thơ sau Thúy Kiều nói “Ngồi lên cho chị lạy rồi, sẽ thưa”. Chúng ta có thể hình dung ra bức tranh Thúy Kiều đang quỳ gối để cầu xin thúy Vân. Thường con người ta chỉ quỳ trước trời đất và cha mẹ, còn kẻ sĩ không bao giờ quỳ gối dưới chân ai. Vậy mà Thúy Kiều gạt bỏ mọi liêm sỉ, sẵn sàng xuống nước, quỳ xuống để thưa chuyện với Thúy Vân. Vế sau “sẽ thưa” cho thấy hành động lạy thưa là hành động của kẻ bề dưới với bề trên, nhưng đây lại là Thúy Kiều với Thúy Vân. Có nghĩa là Kiều hoàn toạn hạ mình để xin Vân đồng ý cho hôn sự này. Đây là hành động bất thường nhưng trong hoàn cảnh này tì nó lại phù hợp, hành động của Kiều là lạy đức tính hi sinh cao cả của Thúy Vân. Kiều mong Thúy Vân hãy rủ lòng thương, sự hi sinh của mình mà đồng ý. Dường như với cách xin thưa này của Thúy Kiều đã đưa Thúy Vân vào thế phải nhận. Có như vậy, Thúy Kiều mới tiếp tục dãi bày tâm sự Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Thúy Kiều lạy thưa Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, và khi biết rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng dãi bày tình cảnh của mình. Đó là câu chuyện tình yêu trong sáng, sâu đậm, tiếng sét ái tình mới gặp mà ngỡ đã biết nhau trăm năm. Mối tình đang đẹp là thế vậy mà đành dang dỡ “đứt gánh tương tư”. Vì nàng Kiều phải đứng giữa bên tình – bên hiếu để lựa chọn, nàng đã chọn bên hiếu đành lỡ hẹn với chàng Kim. Nhưng nàng vẫn không thể yên tâm đành phải nhờ Thúy Vân tiếp tục mối duyên này. Câu thơ sau với động từ “mặc” cho thhaays sự ủy thác, phó mặc của Kiều cho Vân, Kiều đã giao toàn bộ trọng trách cho em và muốn Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọn. Đây có thể nói là lời thuyết phục khôn khéo của Kiều để dấy lên tình thương và trách nhiệm của người em gái đối với Kim Trọng. Có lẽ Thúy Kiều rất hiểu Thúy Vân, Thúy Vân cũng là người con gái vẹn sắc vẹn tài và có lòng hi sinh cao cả. Cho nên thấy chị trong tình cảnh bán thân nàng cũng sẽ không nỡ từ chối lời đề nghị của chị. Kể từ khi gặp chàng Kim , Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Phân tích 18 câu thơ đầu bài trao duyên – Cả 4 câu thơ trên đều đang diễn tả tâm trạng của Kiều về chuyện tình của mình. Khi gặp Kim trọng lần đầu, cả hai như đã quen nhau từ lâu, đã có những lời hẹn ước, thề thốt và bên nhau uống say mật ngọt tình yêu. Tình yêu đang nồng nàn, êm ấm, hạnh phúc vậy mà “sóng gió bất kỳ” khiến cho Kiều chao đảo, bị đẩy vào thế tiến thoái nưỡng nan, một là chọn bên tình , hai là chọn bên hiếu. Và nàng đã quyết định chọn chữ hiếu và đành chấm dứt mối tình Kim – Kiều. Qua đây cho thấy nỗi xót xa của kiều về tình yêu, về người thương, mối tình trong sáng đẹp đẽ. Cách nói của Kiều cũng khiến cho Thúy vân xúc động, nhờ vậy mới thuyết phục được Thúy Vân nhận lời. Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Thậm chí, để thuyết phục được Thúy Vân, Thúy Kiều còn mang cái chết ra để thuyết phục em. Nàng đã nghĩ ngay đến cảnh cuộc đời cô quạnh, cái chết cận kề. Dù cho nàng chết nhưng nàng vẫn mong Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau, như vậy thì dù ở nơi chín suối, nàng sẽ mãn nguyện và hạnh phúc. Nàng đã viện đến cái chết để Thúy Vân cảm kích mà nhận lời. Có lẽ nàng quá thông minh, sắc sảo, nắm được điểm yếu của Thúy Vân đó là tình máu mủ ruột rà, đó là tuổi trẻ còn dài nên Thúy Vân nhất định khó có thể từ chối lời thỉnh cầu của Kiều. Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên! Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Phân tích 18 câu thơ đầu bài trao duyên – Sau khi Thúy Vân đã nhận lời Thúy Kiều về mối duyện tình với Kim Trọng. Thúy Kiều bắt đầu đưa những kỉ vật của cả hai cho thúy vân. Kỷ vật chính là chiếc vành, bức tờ mây. Đây đều là những kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, nhân chứng cho tình yêu lứa đôi và là quá khứ hạnh phúc. Tuy nhiên, trong lời trao kỉ vật “Duyên này thì giữ, vật này của chung” cho thấy sự nuối tiếc của Thúy Kiều, nàng vẫn mong mỏi Thúy Vân hiểu được Kim là của chung, đó là của Kiều và của Vân. Như vậy dù nàng Kiều toàn tâm toàn ý se duyên cho em, nhưng thực ra trong lòng rất xót xa và đau đớn. Vì có ai lỡ để người mình yêu lại đi cưới người con gái khác không phải mình!? Đây chính là sự giẳng xé trong tâm trạng của Kiều. Kều có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Thúy Vân nhưng nàng không thể xóa đi được hình ảnh Kim Trọng vf không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa của Kiều và Trọng. Như vậy, lời thơ có phần day dứt, chua xót. Khi đưa ra kỷ vật cũ hình ảnh năm tháng hạnh phúc lại hiện về khiến Thúy Kiều như lạc giọng, đau đớn, trao kỉ vật mà tâm xót xa, trái tim như ai bóp nghẹt. Có lẽ phải mạnh mẽ lắm Kiều mới có thể làm được điều này. Và thực tế, ngoài mạnh mẽ thì Kiều biết phải làm gì đây. Chỉ 18 câu thơ đầu trong trích đoạn Trao Duyên, bạn đọc phần nào hiểu được tâm trạng, nỗi khổ tâm giằng xé của Kiều khi phải trao đi mối tình sâu đậm cho em gái. Đồng thời cũng thấy nàng là một con người sống tình cảm, hiếu nghĩa và nặng tình. Qua những lời và hành động nàng nói với Thúy Vân càng khẳng định nàng là người con gái vẹn sắc, vẹn toàn, thông minh, sắc sảo với lý luận sắc bén để thuyết phục em. Chỉ bằng thủ pháp nghệ thuật sử dụng từ ngữ tinh tế, thành ngữ dân gian, ẩn dụ, liệt kê và giọng điệu nhẹ nhàng, da diết… trích đoạn đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khác nhau và càng thương yêu cô Kiều hơn. Kết bài Nguyễn Du quả thực rất xứng đáng với danh xưng Đại Thi Hào Dân Tộc khi ông không chỉ là bậc tài hoa trong thơ ca mà tấm lòng của ông thương xót cho thân phận phụ nữ xã hội xưa càng được trân trọng. Mấy ai có thể hiểu và cảm thương cho số phận những người phụ nữ chân yếu tay mềm, hồng nhan bạc mệnh… Những tâm trạng đớn đau của Kiều cũng là tâm trạng của tác giả, xót thương cho nhân vật của mình nói riêng và phụ nữ nói chung. Cuộc đời của Kiều chính là hình ảnh đại diện cho “Hồng nhan bạc mệnh”, dù có tài có sắc thì cũng không tự quyết định cuộc đời mình. 18 câu thơ trong đoạn trích trên cũng là tiếng chuông cảnh báo sự thối nát của xã hội trọng nam khinh nữ và thân phận thấp hèn của người phụ nữ, bị chèn ép, hi sinh và không có tiếng nói, lựa chọn cho cuộc đời. >> Xem thêm Dàn ý phân tích trao duyên – Trích đoạn Truyện Kiều chi tiết, hay xuất sắc
Phân tích bài Trao duyênPhân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên do VnDoc biên soạn và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết bám sát chương trình học sẽ giúp các em học sinh lớp 10 trong quá trình ôn thi học kì 2 luyện thêm đề thi học kì 2 môn Ngữ Văn lớp 10 có đáp án. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây tích đoạn thơ Trao duyên Tâm trạng Thúy Kiều bao gồm các phần sauTâm trạng của Kiều khi Trao duyên cho VânSuy tư, trăn trở của Kiều về cuộc sống phía trướcLời nhắn nhủ, xin lỗi của Kiều gửi đến Kim TrọngBản quyền tài liệu thuộc về VnDoc. Nghiêm cấm mọi hành vi sao chép nhằm mục đích thương đây mời các em tham khảo bài làmKhái quát về Tác giả Nguyễn Du1. Tiểu sử tác giả Nguyễn DuNguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Tổ tiên Nguyễn Du vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam nay thuộc Hà Nội sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm 1708 – 1775, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại Tư đồ Tể tướng, tước Xuân Quận công. Mẹ là bà Trần Thị Tần 740 – 1778, con gái một người làm chức Câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia đình phong kiến quyền quý. Nhưng năm 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống cùng với người anh cùng cha khác mẹ Nguyễn nhiều biến cố lịch sử, từ năm 1789, Nguyễn Du dã rơi vào cuộc sống đầy khó khăn gian khổ. Năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn và hoạn lộ trở nên thuận lợi 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của Sự nghiệp văn học của Nguyễn DuQua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc như ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành,... nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn ý phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên1. Mở bài“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”2. Thân bàia. 12 câu thơ đầu“Cậy em, em có chịu lời,….……………………….Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”“Cậy em” là câu mở đầu khi Kiều muốn nói chuyện với em dù Kiều là chị, thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng đối với tình của Thúy Kiều và Kim Trọng hẳn Vân đã biết, Kiều yêu Trọng từ lần gặp đầu tiên, hai người đã có hẹn ước sẽ nên vợ thành chồng. Sóng gió ập tới gia đình Kiều, nàng không thể khoanh tay đứng nhìn cha và em trai bị vu oan mà chịu lòng Kiều băn khoăn, trăn trở. Bên là chữ hiếu với cha mẹ, bên là mối tình sau nặng khắc cốt ghi tâm với chàng Kim, thật khó để nàng đôi đường vẹn bao suy tư, cuối cùng, Kiều quyết định trao lại mối duyên tình sâu nặng của mình cho Vân. Vân còn trẻ, lại xinh đẹp, rất xứng đôi vừa lứa với chàng Kim, nếu Vân thay Kiều nhận mối duyên này Kiều sẽ yên lòng mà báo hiếu cho cha mẹ. Ở nơi xa xôi hay phải chịu bất cứ khó khăn gì, Kiều cũng cam lòng.→ 12 câu thơ không chỉ diễn tả những giằng xé trong lòng Kiều mà còn thể hiện rõ nét ràng nàng là một người con hiếu thảo, một thiếu nữ trọng tình cảm, yêu thương sâu nặng. Tuy phải trao lại mối lương duyên của mình cho người em là Thúy Vân nhưng Kiều không hề kêu ca hay oán trách ai bất cứ điều 16 câu tiếp“Chiếc thoa với bức tờ mây….…………………………..Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”Sau khi thưa chuyện với Thúy Vân, Kiều trao lại kỉ vật của mình với Kim Trọng cho em, nhắn nhủ em dù có nên vợ thành chồng thì hãy thương xót cho người chị bạc tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn mang nặng lời thề, nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy 6 câu thơ cuối“Trăm nghìn gửi lạy tình quân….……………………………..Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy đã phải thốt lên “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo.→ Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế,cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau Tổng kếtVề nội dung đoạn trích làm nổi bật suy tư đa chiều cũng như tâm trạng của Thúy Kiều khi trao lại mối lương duyên cho người nghệ thuật thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, các câu cảm Kết bàiĐoạn trích giúp ta hiểu hơn về nhân vật Thúy Kiều cũng như hiểu hơn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn mẫu 1 Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyênTruyện Kiều là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo khiến độc giả phải suy ngẫm. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”Khi gia đình gặp nạn, để giải cứu cho cha và em trai, Thúy Kiều buộc phải trao lại mối duyên của mình cho Thúy Vân“Cậy em, em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc từ khi gặp chàng Kim,Khi ngày quạt ước, khi đêm chén đâu sóng gió bất kỳ,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ, thay lời nước dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”Thúy Kiều là chị, tuy nhiên khi nhờ vả, muốn nói chuyện với em mình, nàng dùng sự kính trọng, nhã nhặn đối với em.“Cậy em, em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”“Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình."Giữa đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc từ khi gặp chàng Kim,Khi ngày quạt ước, khi đêm chén đâu sóng gió bất kỳ,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?"Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh."Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ, thay lời nước dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”Vân còn trẻ, đang trong độ tuổi xuân thì, chàng Kim lại là tài tử hiếm có, nếu Vân thay Kiều đến với Kim Trọng thì nàng Kiều sẽ yên tâm mà ra đi vì dù sao đi chăng nữa Vân với Kiều cũng cùng chung giọt máu. Để cảm kích sự đồng ý của Vân, dù cho Kiều có thịt nát xương mòn” nơi đất khách quê người nàng cũng yên tâm mà ra đi, không còn suy tư trăn thơ gây ám ảnh người đọc bởi nó làm hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh như thực về nàng Kiều trọng tình, trọng nghĩa, ta phần nào hiểu thêm, đồng cảm, thương xót cho số phận một cô gái “hồng nhan bạc mệnh.”Những câu thơ tiếp theo là lời dặn dò của Kiều với Vân sau khi trao em mối duyên của mình"Chiếc thoa với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của em nên vợ nên chồng,Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!Mất người còn chút của tin,Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím ra ngọn cỏ gió cây,Thấy hiu hiu gió, thì hay chị còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu đền nghì trúc đài cách mặt, khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác giờ trâm gãy bình tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!"Sau khi Vân đồng ý nhận mối duyên của mình, Kiều mang trao lại em những kỉ vật của mình với chàng Kim. Kiểu sẽ thực sự ghi nhớ ơn nghĩa nếu Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng. Thật đau đớn và xót xa khi người mình yêu nên duyên cùng chính em gái mình, ấy thế mà, với Kiều, đấy lại là một ơn nghĩa mà Vân làm cho cô khiến cô ghi nhớ rằng, Kiều sẽ phải ra đi, nhưng dù còn sống hay khi không còn trên đời nữa, cô vẫn luôn hướng về nhà, về nơi có cha mẹ, có các em và có chàng Kim. Người con gái ấy đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất khi cô chỉ còn là “linh hồn mang nặng lời thề” trở về nhà, cô dặn Vân hãy rảy xin cho cô chén nước để linh hồn cô được siêu thoát. Đến đây, nỗi xót xa của nàng Kiều dường như bị đẩy lên một cao trào mới. Những suy tư ngổn ngang đè nặng lên vai một cô gái vốn có cuộc sống thanh bình. Duyên gãy, phải đi xa gia đình, bán thân thành một người rẻ mạt làm Kiều không tránh nỗi chua xót.“Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”Câu nói thốt lên trong sự cay đắng, nghiệt ngã của số phận. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp giữa hai người giờ đây chỉ còn là kí ức. Từng kỉ niệm ấy Kiều sẽ mãi lưu giữ bên mình. Đó cũng là sự hụt hẫng, tiếc nuối về một thời yêu nhau say đắm của hai người. Đến đây, người đọc không khỏi tiếc nuối tiếc nuối cho số phận của Kiều, tiếc nuối cho mối duyên của hai người cũng như tiếc nuối về kỉ niệm mà họ đã từng có với nhau."Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy sao phận bạc như vôi?Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ Kim Lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"Những việc Kiều làm khiến người khác phải thương xót. Tuy nhiên, với nàng, đó lại là những lỗi lầm nàng gây ra cho người nàng thương yêu. Nàng gửi đến chàng Kim trăm nghìn cái lạy để mong chàng tha thứ vì mình đã không giữ đúng lời hứa cùng chàng nên duyên vợ chồng. Tơ duyên của hai người có lẽ chỉ đến được đây thôi, từ nay Vân sẽ thay Kiều yêu thương, chăm sóc cho chàng. “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” câu nói Kiều thốt ra như một lời xin lỗi, tiễn biệt mà nàng gửi đến Kim Trọng. Từ nay, Kiều phải đi về nơi khác, phải phụ tình cảm mà Kim dành cho mình từ đây. Có thể Kim Trọng sẽ thất vọng, sẽ đau khổ khi nàng ra đi nhưng nàng không thể làm khác câu thơ là sự đau khổ, bất hạnh của nàng Kiều, nhưng chính những điều này khiến ta nể phục, yêu thương cô Kiều vì cô không chỉ là người sống tình nghĩa mà còn là người có suy nghĩ sâu sắc, luôn quan tâm, lo lắng cho người khác trước khi lo cho bản thân nổi bật làm nên thành công vang dội của tác phẩm đó chính là thể thơ lục bát dân gian của dân tộc. Đoạn trích sử dụng những câu cảm thán đã khắc họa thành công tâm trạng, nỗi lòng của Thúy Kiều khi trao mối duyên của mình cho Thúy trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn mẫu 2 Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyênTrao Duyên là một trong những đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ khắc họa được rõ nét nhất tấn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Khi vì chữ Hiếu mà nàng phải quên đi chữ Tình quên đi hạnh phúc của đời mình đành dang dở. Bằng bút pháp miêu tả nội tâm tài tình Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều.“Cậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.Trong không gian tĩnh mịch đêm khuya vắng. Thúy Kiều gọi Thúy Vân đến khẩn thiết cậy nhờ em. Nàng biết rằng điều mình nói ra đây thật sự rất khó khăn nên mới phải sử dụng từ “cậy em”. Sau đó rồi đưa Thúy Vân lên một tầm cao hơn đó là ngồi lên trên để chị “lạy rồi sẽ thưa”. Chỉ hai câu thơ đầu thôi mà chúng ta đã thấy được Thúy Kiều là người hiểu chuyện như thế nào khi lường trước được việc mình cậy nhờ em sẽ thật sự khó khăn nên muốn đưa em vào thế không thể chối từ. Trong niềm đau đớn của bản thân, Thúy Kiều cố gắng phân bày với em việc tại sao mới có lý do cậy nhờ ngày hôm nay"Giữa đường đứt mối tương loan chắp mối tơ thừa mặc từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước khi đêm chén đâu sóng gió bất tình khôn lẽ hai bề vẹn xuân em hãy còn tình máu mủ thay lời nước dù thịt nát xương cười chín suối vẫn còn thơm lây.”Nàng kể về mối tình nồng thắm của mình với Kim Trọng vừa mới chớm nở nay đã phải lụi tàn vì hoàn cảnh gia đình. Không còn nỗi đau khổ nào hơn khi vì chữ Hiếu mà phải dứt bỏ chữ Tình với chàng Kim. Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà nhận lời chắp nối tơ duyên với Kim Trọng. Nếu Thúy Vân nhận lời làm việc đó thì dù có chết Thúy Kiều cũng vẫn biết ơn em. “Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”. Nàng đã lấy cả cái chết ra để thuyết phục em gái nhận lời cậy nhờ của khi Thúy Vân đã nhận lời giúp chị Thúy Kiều bắt đầu trao cho em những kỷ vật tình yêu. Lúc này tâm trạng đau khổ giằng xé của nàng được tác giả Nguyễn Du khắc họa rất rõ trâm với bức tờ này thì giữ, vật này của em nên vợ nên người mệnh bạc ắt lòng chẳng người còn chút của đàn với mảnh hương nguyền ngày giờ phút trao duyên mọi kỷ niệm lại sống dậy mãnh liệt trong tâm trí Thúy Kiều. Ngỡ như tình yêu chỉ mới hôm qua đây khi nàng vừa gặp Kim Trọng vừa trao nhau những lời thề nguyền ước hẹn. Trao duyên những kỷ vật đấy được xem là của chung. Và sau này khi em có nên vợ nên chồng với chàng Kim cũng đừng quên chị. Càng nói Thúy Kiều càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Khi mà có được tình yêu trong tay rồi mà vì biến cố gia đình lại bị tuột mất. Nàng chới với không biết bám víu vào đâu nên tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau mà lúc đấy nàng chỉ như một oan hồn vật vờ trong gió vương vấn trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày sau dù có bao lò hương ấy so tơ phím ra ngọn cỏ lá hiu hiu gió thì hay chị như ở đoạn thơ đầu Thúy Kiều nói chỉ cần Thúy Vân nhận lời trao duyên thì mình ở nơi chín suối cũng ngậm cười thơm lây. Thì đến đoạn thơ này khi nhắc đến những kỷ niệm tình yêu với chàng Kim nàng càng day dứt. Nàng day dứt vì tình yêu không trọn vẹn. Thúy Kiều cảm thấy nỗi xót xa vô hạn dù chỉ là tưởng tượng thôi cũng khiến người ta cảm thấy thương cảm. Đúng là “trâm gãy bình tan” tơ duyên ngắn ngủi vừa nở đã tàn. Thúy Kiều chỉ xin em dù có thế nào nếu có âm dương cách biệt hãy cho chị xin giọt nước cho người thác còn mang nặng lời thân bồ liễu đền nghì trúc đài cách mặt khuất xin giọt nước cho người thác Thúy Kiều dù có chết nàng cũng không bao giờ quên được tình yêu với Kim Trọng. Nên dù “thác xuống” nàng vẫn đau đáu với tình yêu chưa trọn vẹn. Nàng đã phải thốt lênÔi Kim Lang! Hỡi Kim thôi! Thiếp đã phụ chàng từ lời hồn ngất máu sayMột hơi lặng ngát đôi tay giá đồngThúy Kiều đã phải thốt lên “ôi Kim Lang” nghĩa là nàng đã coi chàng Kim Trọng như phu quân của mình là tình lang trong mộng. Nhưng từ nay cũng chỉ vì chữ Hiếu mà phải phụ chàng từ thơ kết thúc với tâm trạng đau khổ cùng cực của Thúy Kiều. Ta thấy Nguyễn Du thật sự rất tài tình khi đã lột tả chân thực được nỗi niềm của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Ở đó có cả sự mạnh mẽ của quân tử cũng có sự yếu đuối của nữ nhi thường tình khi phải rời xa tình yêu khắc cốt ghi tâm của mình. Một tâm trạng giằng xé đau khổ mà không phải ngòi bút nào cũng có thể lột tả mẫu 3 Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyênĐoạn thơ Trao duyên là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Mười năm lưu lạc của Thúy Kiều là một tấn bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. Mối tình đầu đẹp đẽ, trong sáng giữa nàng với Kim Trọng đã sớm bị sóng gió cuộc đời làm cho tan vỡ. Sau khi bán mình chuộc cha để báo đền chữ hiếu, Kiều đã âm thầm khóc thương cho lời nguyền vàng đá với chàng Kim. Nàng đành cậy Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng. Trao duyên là nỗi đau đớn, nỗi đau đầu đời của người con gái tài sắc - Thúy đêm gia biến Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu. Nàng sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính minh là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng cam chịu số phận đen bạc của mình Phận dầu, dầu vậy cùng dầu để nghĩ đến nỗi đau của Kim TrọngCông trình kẻ biết mấy mươiVì ta khăng khít cho người dở dang!Thề hoa chưa ráo chén vàngLỗi thề thôi đã phũ phàng với hoaThúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự trách mình khăng khít, khiến cho người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động tìm đến nhau, yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột mình một bóng, đối diện với tâm trạng rối bời, tan nát, Kiều chỉ biết âm thầm khóc than cho gia cảnh, cho duyên phận. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Và Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân. Thấy Kiều khóc lóc ủ ê, Thúy Vân gạn hỏi nguyên do và cũng lờ mờ đoán biết chị mình đang mắc mối tình chi đây. Kiều trao duyên cho em mà trong lòng băn khoăn, bối rốiRằng lòng đương thổn thức đầyTơ duyên còn vướng mối này chưa xongHở môi ra cũng thẹn thùngĐể lòng thì phụ tấm lòng với thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim - mối tình mà chỉ hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em mình đi nữa cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tám; nó trở thành thiêng liêng, khó có thế đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình, Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời. Kiều lâm vào tình thế khó xử; không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi em, em có chịu lờiNgồi lèn cho chị lạy rồi sẽ thưaLời gì vậy? Đó là lời nhờ Vân thay chị nối tình với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Cả một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này. Nàng chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị, nàng như vụt thấy một làn chớp sáng Đây rồi, cô em gái này có thế' giúp mình trả món nợ tình. Đề nghị ây cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó quan trọng quá, nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà?Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến ấy và hầu như ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương. Chị thương em. tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, lại đang đau xót vì môi tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết lời giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu lòng ta hỏi Tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự sai biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không dọng ở chữ thư nhất của câu thơ nữa mà còn giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, cái ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời trối trăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chiu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ có nội dung tự nguyện còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ, chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được? Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu yêu cầu Thúy Vân Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì chỉ có kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy. Trong những giây phút đau đớn, tội nghiệp này, Kiều vẫn quên mình để suy nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mìnhKể từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước, khi đêm chén thềTâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếuSự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn người con có hiếu, Kiều đã bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trảNợ tình chưa trả cho aiKhối tình mang xuống tuyền đài chưa tanÝ nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận. Tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơiChị dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với cái đạo đức thơm tho của em. Kiều nói với em những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ? Ngôn ngữ của Kiều ở đoạn này là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều là cô gái rất giàu tình cảm nhưng đối với chuyên trọng đại của cả một đời người này, nàng không thể dùng tình cảm của mình mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh mà dùng lí lẽ, phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng lời nói có lí, có tình thiết tha của Thúy Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là nàng chấp nhận. Đến đây Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kĩ vật tình yêu giữa mình với Kim Trọng ra trao cho em gáiChiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của chungNếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm của mình nữa, trái tim đa cảm bắt đầu lên tiếng. Nàng nói Chiếc vành với bức tờ mây vẫn bằng tiết tấu của mấy câu thơ trên, nhưng đến câu Duyên này thì giữ vật này của chung nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào ở trong đó. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, phần nàng đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rò ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không tình đầu thơm, tho, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Gửi lại trong chút kỉ vật này vậy. Giữa lúc tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tìm lấy một chút an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác của lòng mình. Ngôn ngữ nàng không còn cái. mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm, của cả ảo giác. Càng nói càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nói rõ mình mệnh bạc, tình mình mất đi và bao nhiêu nỗi niềm ngày xưa nay chỉ còn có phím đàn với mảnh hương nguyềnDù em nên vợ nên chồngXót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quênMất người còn chút của tinPhím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưaMai sau dù có bao giờĐốt lò hương ấy so tơ phím nàyTrông ra ngọn cỏ lá câyThấy hiu hiu gió thì hay chị vềHồn còn mang nặng lời thềNát thân bồ liễu đền nghì trúc đài cách mặt khuất lờiRưới xin giọt nước cho người thác đến tương lai chắc chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan. Có mâu thuẫn không?Trên kia Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ trong giây lát tưởng tượng, .nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người; nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời nàng phảng phất như lời từ cõi bên kia vọng thơ cùng chợt đổi giọng. Hình ảnh âm điệu như chập chờn bay hết nét thật, có cái gì đó thật hư ảo thời điểm không xác định mai sau, bao giờ, không khí linh thiêng đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại hình ảnh phất phơ, ma mị ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió... Tất cả đều nói lên rằng Kiều tiếp tục khổ đau và càng khổ đau gấp đà nửa tỉnh nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói một mình, nói với mình về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, đành gửi chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn quằn quại đến mức Kiều phải nấc lênÔi Kim lang! Hỡi Kim langThôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đâyTiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã làm cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không đơn giản mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xácCạn lời hồn ngất máu sayMột hơi lặng ngắt, đôi tay giá thơ là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tâm hồn vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 4Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn vù đắp cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang hai câu thơ đầu ta thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận“Cậy em em có chịu lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ. Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim. Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng“Giữa đường đứt gánh tương tưKeo loan chắp mối tơ thừa mặc emKể từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kì,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân cho được. Thúy Kiều vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó càng làm cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được“Ngày xuân em hãy còn dàiXót tình máu mủ thay lời nước nonChị dù thịt nát xương mònNgậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Kiều mong vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Nếu được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của em gái cho mình. Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu“Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ vật này của chungDù em nên vợ nên chồngXót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quênMất người còn chút của tinPhím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của ba người. Dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy. Kiều đau đớn như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng“Mai sau dù có bao giờĐốt lò hương ấy so tơ phím nàyTrông ra ngọn cỏ lá câyThấy hiu hiu gió thì hay chị vềHồn còn mang nặng lời thềNát thân bồ liễu đền nghì trúc maiDạ đài cách mặt khuất lờiRảy xin chén nước cho người thác oan”Sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Cơn gió kia thể hiện sự vương vấn cõi trần này của nàng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con dường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc. Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôiVẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyênTiếng khóc và nỗi đau của Thúy Kiều trong Trao duyênNỗi đoạn trường về tình duyên lỡ bỏ trong Trao duyênTrắc nghiệm Ngữ văn lớp 10 bài Trao duyênĐể tham khảo thêm nhiều đề thi và tài liệu học tập hay khác, trao đổi với thầy cô và giáo viên, mời các bạn tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 10Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài học rồi đúng không ạ? Bài viết được tổng hợp gồm có dàn ý và các bài văn mẫu phân tích tậm trạng của Thúy Kiều. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Giải bài tập Tiếng Anh lớp 10, trắc nghiệm Vật Lí, Chuyên đề môn Toán lớp 10, Đề thi học kì 2 lớp 10 mà VnDoc tổng hợp và đăng các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.
Câu hỏi Trong câu thơ “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non” từ xuân được sử dụng với nghĩa nào? A. Nghĩa gốc chỉ mùa xuân B. Nghĩa chuyển chỉ tuổi trẻ C. Nghĩa Hán Việt vì đây là từ mượn D. Cả 3 đáp án trên Từ “lộc” trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sử dụng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyển? Hãy giải thích tại sao tác giả lại miêu tả người lính là “lộc dắt đầy trên lưng”? Xem chi tiết Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng đương tới, nghĩa là xuân đương qua,Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,Mà xuân hết, nghĩa là tôi /…/;Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ cho dài thời trẻ của nhân gian,Nói làm chi rằng xuân vẫn /…/Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /…/;Mùi tháng năm đều rớm vị c...Đọc tiếp Xem chi tiết Đọc kĩ các câu sau trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, chú ý những từ in đậma – Gần xa nô nức yến anh,Chị em sắm sửa bộ hành chơi dìu tài tử giai nhân,Ngựa xe như nước áo quần như – Được lời như cởi tấm lòng,Giở kim thoa với khăn hồng trao tay. – Cũng nhà hành viện xưa nay,Cũng phường bán thịt cũng tay buôn từ điển tiếng Việt chẳng hạn Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, 2002 để biết nghĩa của từ xuân, từ tay trong các câu trên và cho biết n...Đọc tiếp Xem chi tiết Nguyễn Du đã có những câu thơ khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp như sau“Ngày xuân con én đưa thoiThiều quang chín chục đã ngoài sáu mươiCỏ non xanh tận chân trờiCành lê trắng điểm một vài bông hoa.”Trích Truyện KiềuCâu 1 Từ “Thiều quang” trong đoạn trích trên có nghĩa là gì?Câu 2 Em hãy chỉ ra phép đảo ngữ được Nguyễn Du sử dụng trong đoạn thơ trên. Cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong đoạn thơ đã góp phần khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân như thế nào?Câu 3 Trong chương...Đọc tiếp Xem chi tiết Đề trình bày cảm nhận của em về đoạn trích sauKể từ khi gặp chàng Kim ,Khi ngày quạt ước, khi đêm chén đâu sóng gió bất kỳ,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ, thay lời nước dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm thoa với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của chungĐọc tiếp Xem chi tiết lập dàn ý cho đề bài sau trong bài thơ viếng lăng bác viễn Phương viết kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân dựa trên hiện tượng chuyển nghĩa của từ. Từ mùa xuân có thể thay thế cho từ nào ?theo phương thức chuyển nghĩa nào? việc thay thế từ trên có tác dụng diễn đạt như thế nào? Xem chi tiết Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” có những hình ảnh mùa xuân nào? Em hãy chỉ ra và nêu ý nghĩa của các hình ảnh đó. Xem chi tiết Em hãy viết một đoạn văn từ 5 – 7 câu phân tích ý nghĩa nhan đề bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, trong đó có sử dụng các phép liên kết lặp, nối. Xem chi tiết Đọc hai câu thơ sauNgày ngày mặt trời đi qua trên lăngThấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.Viễn Phương, Viếng lăng BácTừ mặt trời trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép tu từ vựng nào? Có thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa được không? Vì sao?Đọc tiếp Xem chi tiết
Quẻ Kiều bản PDF cập nhật ai muốn thấy và muốn hiểu Chư Bụt có mặt trong ba đời Người ấy cần quán chiếu pháp giới Tất cả đều do tâm mà thôi Kinh Hoa NghiêmNghệ Thuật Đoán Quẻ Kiều The Art of Oracle ReadingBói Kiều là tham khảo ý kiến cụ Nguyễn Du, ni sư Giác Duyên và đạo cô Tam Hợp về tình trạng hiện tại của mình và để biết tu tập tiếp xử cách nào cho có hạnh phúc và thành công trong năm tới. Thác là thể phách, còn là tinh anh’, tuy hình hài cụ Tiên Điền không còn, nhưng tinh anh của thi hào vẫn còn mãi mãi trong ta, chung quanh ta và trong sức sống của dân tộc. Tại làng Mai, ai bói Kiều cũng tắm tắc khen là linh tham vấn, phải tới trước bàn thờ Phật và tổ để lạy ba lạy thật cung kính, rồi ngồi xuống đặt tay vào thành chuông, thở ba lần rất chánh niệm rồi đưa tay vào chuông bốc lên một quẻ. Cụ Nguyễn Du cũng như ni sư Giác Duyên đều là tổ tiên tâm linh và nghệ thuật của tất cả chúng ấy được trao cho vị có nhiệm vụ đoán quẻ. Vị này là một người có kiến thức về văn chương truyện Kiều, có khiếu tâm lý và nhận xét, và nhất là có kiến thức Phật pháp và kinh nghiệm tu tập. Trong lúc quẻ được một người ngâm lên, mọi người có mặt đều thực tập theo dõi hơi thở. Nên có tiếng đàn phụ họa giọng ngâm. Thời gian này là để vị đoán quẻ chiêm cách đoán quẻ, thường thường ở làng Mai, các Thầy, các Sư Cô và các vị Cư Sĩ hay theo phương pháp sau đây1/ Trong hai câu lục bát, có thể một câu là nhân và một câu là quả. Quả có thể là đã phát sinh trong hiện tại hay là điều mong ước trong tương lai. Nhân là lời khuyên của cụ Nguyễn Du về cách hành xử và tu tập để chuyển hóa hay thực hiện. Ví dụ trong như tiếng hạc bay qua là tâm an tĩnh của mình được xem là quả hiện tại. Nhân của quả ấy là dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng, nghĩa là đã biết thân cận với Tam Bảo và xa lìa những môi trường nguy hiểm. Cũng thế, như ở các quẻ 48 và 78, câu 8 là nhân, câu 6 là quả và ở các quẻ 93 và 100, câu 6 là nhân và câu 8 là quả. Có khi trong một câu 8, bốn chữ đầu là nhân, bốn chữ sau là quả, hay ngược Nghĩa lý trong quẻ không cần đi theo nghĩa lý truyện Kiều. Ví dụ Lòng còn gửi áng mây vàng không hẳn phải giải là đương sự còn tưởng nhớ quê hương mà có thể giải là lý tưởng tu học vẫn còn vững mạnh, bồ đề tâm vẫn còn nguyên vẹn, vì mây vàng ở đây có thể được xem là lý tưởng cao siêu của đạo Bụt, của ánh đạo vàng. Song thu đã khép cánh ngoài không những có nghĩa là đóng cửa sổ lại mà còn có nghĩa là đừng nên để tâm tới những chuyện thế gian, phải tập trung tâm ý vào việc tu học. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, theo tinh thần của Quy Sơn Cảnh Sách, là phải nương tựa vào các vị thiện tri thức Hỏi xem đương sự đã muốn tham vấn cụ Nguyễn Du về vấn đề nào, để nương vào đó mà đoán Có thể tham khảo ý kiến của một vài vị thiện trí thức có mặt xem các vị này có tuệ giác gì khác nữa hay không về quẻ đang được Quẻ đoán phải có tác dụng an ủi, khuyến khích và soi sáng cho người xin Trong giờ bói Kiều, nên tập họp cả đại chúng. Mỗi người bói xong phải lạy tạ trước khi trở về chỗ ngồi. Mỗi lời đoán phải là một bài thuyết pháp ngắn cho tất cả đại chúc liệt vị những ngày xuân ấm áp, hạnh phúc và đầy đạo KhấnCầu thi thánh Nguyễn Du Cầu đạo cô Tam Hợp Cầu Sư Trưởng Giác Duyên Cầu giáng tiên Thúy KiềuTôi tên là……………………….. Xin tham vấn thi thánh, đạo cô, sư trưởng và giáng tiên về vấn đề………………………210 Quẻ Kiềusố thứ tự câu trong truyện Kiều và chú thích từ ngữ1- Thông minh vốn sẵn tính trời 29 Nhẹ nhàng nghiệp trước, đền bồi duyên sau 2690 Nghiệp nghiệp chướng, tức là khó khăn, hậu quả do hành động ta gây ra. Duyên điều Tan sương vừa rạng ngày mai 1083 Trụ trì nghe tiếng vội mời vào trong 2038 Rạng rựng sáng, đêm vừa hết và ngày mới Nâu sồng từ trở màu thiền 1933 Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi 400 Nâu sồng quần áo người tu, nhuộm bằng củ nâu và củ Bây giờ rõ mặt đôi ta 443 Tu là cội phúc, tình là dây oan 2658 Cội phúc cái gốc của hạnh phúc. Dây oan sợi dây ràng buộc mình vào những khó khăn, oan Song thu đã khép cánh ngoài 1073 Hay là khổ tận đến ngày cam lai? 3210 Song cửa sổ. Khổ tận cam lai khó khăn đã qua rồi và tương lai có vẻ khả quan Bấy lâu mới được một ngày 315 Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương 2078 Ngọn đèn khêu nguyệt thức khuya đọc sách, tim đèn cháy sáng có hình của con trăng lưỡi liềm. Tiếng chày nện sương thức sớm, ta thỉnh chuông đại hồng mà giống như đang nện vào đám sương Cho hay giọt nước cành dương 1931 Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi2687 Giọt nước cành dương giọt nước cam lồ của đức Bồ Tát Lắng Nghe Quan Thế Âm, được dùng cành dương liễu mà rảy. Túc khiên tội lỗi gây ra trong kiếp Tấm thân rày đã nhẹ nhàng 2293 Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi 2396 Thanh thiên bạch nhật giữa ban Thương sao cho vẹn thì thương 1359 Lòng đây lòng đấy chưa tường hay sao? 1362 Tường am tường, hiểu rõ Thương sao cho vẹn thì thương 1359 Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên 1932 Trần bụi bặm, cõi đời. Duyên điều Phật tiền ngày bạc lân la 2991 Tương tri dường ấy mới là tương tri 3184 Tiền phía trước. Ngày bạc bạch nhật ban ngày. Tương tri hiểu bụng Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân 901 Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau 2410 Tầm thước do lường. Tùng quân người quân tử. Tùng cây tùng. Quân cây tre Đã nguyền hai chữ đồng tâm 555 Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời 2522 Đồng tâm cùng một Đã nên có nghĩa có nhân 2909 Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung 1034 Nghĩa lối xử sự đúng đường. Nhân lòng thương Đề huề lưng túi gió trăng 137 Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời 2522 Đề huề mang theo. Lưng nửa chừng, chưa Gương trong chẳng chút bụi trần 3173 Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong 332 Thói nhà băng tuyết nếp sống trong sạch của gia đình. Chất hằng phỉ phong tuy nghèo nhưng luôn giữ được tư cách của mình. Phỉ phong rau phỉ và rau Nâu sồng từ trở màu thiền 1933 Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng 1686 Nâu sồng quần áo người tu, nhuộm bằng củ nâu và củ Thương nhau xin nhớ lời nhau 1515 Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? 2412 Cơ duyên những gì sẽ xảy ra với ta do guồng máy thiên nhiên sắp đặt. Cơ máy. Duyên điều Song hồ nửa khép cánh mây 283 Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần 2862 Song hồ cửa sổ được dán giấy giấy hồ. Cánh mây cánh cửa dán giấy có vẽ mây. Ngõ hạnh đường ở trong Hạnh Viên, chỗ nhà vua tiếp các vị tiến sĩ mới. Dặm phần đường về quê hương. Phần cây phần, thường dùng để chỉ quê Dịp đâu may mắn lạ thường 1291 Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao 2876 Tiêu dao thong thả, tự Tan sương vừa rạng ngày mai 1083 Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần 2862 Ngõ hạnh đường ở trong Hạnh Viên, chỗ nhà vua tiếp các vị tiến sĩ mới. Dặm phần đường về quê hương. Phần cây phần, thường dùng để chỉ quê Bốn bề bát ngát xa trông 1035 Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường 300623- Một người dễ có mấy thân 1005 Ở đây hoặc có giai âm chăng là 2884 Giai âm tin tốt, tin Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân 901 Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen 2910 Tầm thước do lường. Tùng quân người quân tử. Tùng cây tùng. Quân cây tre Cùng nhau nương cửa Bồ Đề 2989 Vườn xuân một thửa, để bia muôn đời 3240 Vườn xuân một thửa hoặc vườn xuân một cửa, một gia đình êm Ngày xuân em hãy còn dài 731 Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 299427- Trùng sinh ân nặng bể trời 3049 Ngày phô thủ tự, đêm nhồi tâm hương 1930 Trùng sinh sinh ra thêm một lần nữa. Phô trình bày ra. Thủ tự nét chữ viết tay. Nhồi huấn luyện, thực tập. 28- Thiền trà cạn nước hồng mai 1991 Nhờ tay tế độ, vớt người trầm luân 1080 Hồng mai nước trà nấu bằng thân mai già. Tế độ đưa người sang bờ bên kia, nơi có sự thảnh thơi, hạnh phúc. Trầm luân trôi lăn trong khổ Cùng nhau lạy trước Phật đài 3031 Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 299430- Lời vàng vâng lĩnh ý cao 495 Trên am cứ giữ hương dầu hôm, mai 3234 Hương dầu sự chăm sóc nhang đèn trên bàn thờ Bụt. Hôm mai ban đêm và rạng sáng, hai buổi công Trong như tiếng hạc bay qua 481 Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng 1926 Rừng tía chỗ ở của đức Bồ Tát Lắng Nghe Quan Thế Âm. Bụi hồng cõi Vầng trăng vằng vặc giữa trời 449 Nhẹ nhàng nghiệp trước đền bồi duyên sau 2690 Nghiệp nghiệp chướng, tức là khó khăn, hậu quả do hành động ta gây ra. Duyên điều Trông người lại ngẫm đến ta 417 Tu là cội phúc, tình là dây oan 2658 Cội phúc cái gốc của hạnh phúc. Dây oan sợi dây ràng buộc mình vào những khó khăn, oan Kiếp tu xưa ví chưa dày 407 Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? 3038 Rày bây giờ, như Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi 2137 Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng 2686 Khinh trọng nhẹ hay nặng, đáng hay Một tường tuyết chở sương che 367 Lời Sư đã dạy ắt thì chẳng sai 2414 Tuyết chở sương che che chở cho khỏi bị lạnh vì sương, Chung quanh vẫn đất nước nhà 153 Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên 322438- Một lời nói chửa kịp thưa 119 Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm 285239- Thông minh vốn sẵn tính trời 29 Mà trong lẽ phải, có người có ta 311440- Hoa cười ngọc thốt đoan trang 21 Lòng kia giữ được thường thường mãi không? 1338 Hoa cười ngọc thốt nụ cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc. Đoan trang đứng đắn, đàng Vầng trăng vằng vặc giữa trời 449 Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra 265642- Còn non còn nước còn dài 557 Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương 2346 Non vàng một núi chất đầy vàng. Tấm thương tấm lòng thương Gương trong chẳng chút bụi trần 3173 Sen vàng lãng đãng như gần như xa 19044- Khi hương sớm khi trà trưa 1297 Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng 273445- Gửi thân được chốn am mây 2053 Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là 316 Gạn gặng, hỏi kỹ. Niềm tây nỗi niềm riêng ở trong lòng Trong cơ thanh khí tương tầm 2883 Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân 174 Thanh khí tương tầm người có ưa thích giống nhau thì thường tìm đến nhau mà thân cận. Vàng gieo ngấn nước bóng trăng vàng lung linh trên mặt nước. Cây lồng bóng sân bóng cây đổ dài ở ngoài Gìn vàng giữ ngọc cho hay 545 Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương 2058 Gìn vàng giữ ngọc giữ gìn thân thể quí như vàng, như ngọc. Ngọn đèn khêu nguyệt thức khuya đọc sách, tim đèn cháy sáng có hình của con trăng lưỡi liềm. Tiếng chày nện sương thức sớm, ta thỉnh chuông đại hồng mà giống như đang nện vào đám sương Gửi thân được chốn am mây 2053 Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi 2424 Am mây chỗ người tu ở. Tấc riêng tâm sự ở trong lòng mình. Cất gánh để gánh lên So dần giây vũ giây văn 471 Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay 2056 Dây vũ dây văn dây đàn to và dây đàn nhỏ. Trai phòng nhà trai, phòng ăn ở trong Tiếng sen sẽ động giấc hòe 437 Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần 134 Tiếng sen tiếng bước chân của người đẹp. Giấc hòe giấc ngủ. Hòe cây hòe, Thuần Vu Phần ngủ dưới cây hòe, nằm Phong sương được vẻ thiên nhiên 399 Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa 3198 Phong sương gió và sương, hình ảnh tượng trưng để miêu tả cảnh thiên nhiên. Tiếng huyền tiếng Nạn xưa trút sạch làu làu 2737 Mười phần ta đã tin nhau cả mười 158453- Được lời như cởi tấm lòng 353 Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau 241054- Long lanh đáy nước in trời 1603 Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông 2748 Gió đông gió từ phương đông thổi lại, gió mùa Tạ lòng lạy trước sân mây 2379 Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong 2054 Sân mây sân ở cung điện nhà vua, có vẽ Nghe tường ngành ngọn tiêu hao 2927 Giác Duyên đâu bỗng tìm vào tới nơi 2974 Tường hiểu rõ ràng. Tiêu hao tin Nẻo xa mới tỏ mặt người 141 Duyên ta mà cũng phúc trời chi không 2694 Chi không có chút gì chớ chẳng phải là hoàn toàn không Giật mình thoắt tỉnh giấc mai 2727 Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ 464 Giấc mai giấc ngủ nhẹ nhàng. Mai cây mai do tích Triệu Sư Hùng ngủ dưới gốc mai. Chung Kỳ Chung Tử Kỳ, bạn tri âm của Bá Nha, nghe tiếng đàn mà hiểu tâm sự của Dẫu rằng vật đổi sao dời 3087 Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa 3074 Vật đổi sao dời mọi vật đều thay Những là rày ước mai ao 3069 Dưới dày có đất trên cao có trời 308661- Lấy tình thâm trả nghĩa thâm 2683 Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm 317462- Nghe tin nở mặt nở mày 2993 Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần 2862 Ngõ hạnh đường ở trong Hạnh Viên, chỗ nhà vua tiếp các vị tiến sĩ mới. Dặm phần đường về quê hương. Phần cây phần, thường dùng để chỉ quê hương. 63- Trùng sinh ân nặng biển trời 3049 Tái sinh trần tạ ơn người từ bi 3032 Trùng sinh sinh ra thêm một lần nữa. Trần tạ bày tỏ lòng cảm Áo xanh đổi lấy cà sa 1921 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài 325265- Khen cho con mắt tinh đời 2201 Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương 2346 Non vàng một núi chất đầy vàng. Tấm thương tấm lòng thương Cửa sài vừa ngỏ then hoa 529 Nhớ lời nói những bao giờ hay không? 2276 Cửa sài cửa bằng gỗ. Sài gỗ, ván. Ngỏ mở ra. Then then Sớm khuya lá bối phướn mây 2057 Đi về này những lối này năm xưa 2751 Lá bối một loại lá ngày xưa dùng để chép kinh. Phướn lá phướn, cờ to treo trước Gửi thân được chốn am mây 2053 Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ 464 Chung Kỳ Chung Tử Kỳ, bạn tri âm của Bá Nha, nghe tiếng đàn mà hiểu tâm sự của Sẵn Quan Âm Các vườn ta 1913 Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao 301470- Thân ta, ta phải lo âu 2015 Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì? 2412 Cơ duyên những gì sẽ xảy ra với ta do guồng máy thiên nhiên sắp đặt. Cơ máy. Duyên điều Sư rằng song chẳng hề chi 2679 Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa 2990 Thảo am am tranh, chùa tranh. 72- Cho hay giọt nước cành dương 1931 Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu 1316 Giọt nước cành dương giọt nước cam lồ của đức Bồ Tát Lắng Nghe Quan Thế Âm, được dùng cành dương liễu mà Mấy lời tâm phúc ruột rà 3183 Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa 1472 Lời tâm phúc lời nói từ lòng tin cậy. Tâm tim. Phúc Đã gần chi có điều xa 1365 Tu là cội phúc tình là dây oan 2658 Cội phúc cái gốc của hạnh phúc. Dây oan sợi dây ràng buộc mình vào những khó khăn, oan Lòng còn gửi áng mây vàng 1319 Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! 2478 Mây vàng đám mây sắc vàng, chỉ quê nhà. Thanh vân mây xanh, tỷ dụ người thi đậu làm quan, có công Lạ gì thanh khí lẽ hằng 1287 Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi 2688 Thanh khí lẽ hằng thường thường những người có ưa thích giống nhau thường làm bạn với nhau. Túc khiên tội lỗi gây ra trong kiếp Nghe tường ngành ngọn tiêu hao 2687 Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành 674 Tường hiểu rõ ràng. Ngành ngọn có đầu có đuôi. Tiêu hao tin Trước sau cho vẹn một lời 2693 Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông 2748 Gió đông gió từ phương đông thổi đến, gió mùa Thửa công đức ấy ai bằng 2687 Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi? 3046 Thửa là trợ từ, nhưng ta cũng có thể hiểu là mảnh đất, ruộng. Công đức việc tốt mình làm ra, để lại đức cho người sau hưởng. 80- Năm mây bỗng thấy chiếu trời 2947 Nào lời non nước, nào lời sắt son 1632 Năm mây chiếu vua, có vẽ mây năm sắc. Chiếu trời chiếu của nhà vua. Sắt son tấm lòng thành. Sắt cứng và son Sao cho muôn dặm một nhà 2435 Mười lăm năm mới bây giờ là đây! 313882- Gió quang mây tạnh thảnh thơi 2063 Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng 2420 Quang trời sáng sủa, không có mây. Tạnh hết mưa gió. 83- Một lòng chẳng quản mấy công 2701 Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau 2736 Triều dâng hôm sớm mỗi ngày thường có hai lần thủy triều, buổi mai và buổi Giật mình thoắt tỉnh giấc mai 2727 Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa 3074 Giấc mai giấc ngủ nhẹ nhàng. Mai cây mai do tích Triệu Sư Hùng ngủ dưới gốc Kệ kinh câu cũ thuộc lòng 2055 Tấn Dương được thấy mây rồng có phen 2196 Tấn Dương nơi Đường Cao Tổ khởi Thấy màu ăn mặc nâu sồng 2039 Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường 208 Nâu sồng quần áo người tu, nhuộm bằng củ nâu và củ sồng. Tú khẩu cẩm tâm miệng thêu lòng gấm, tức là lời hay ý đẹp. 87- Trời đông vừa rạng ngàn dâu 2033 Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này 2738 Ngàn dâu rừng Thiền trà cạn nước hồng mai 1991 Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra 2656 Hồng mai nước trà nấu bằng gỗ mai già. Cỗi nguồn cội nguồn, gốc Gác kinh viện sách đôi nơi 1937 Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng 2686 Khinh trọng nhẹ hay nặng, đáng hay Được lời như mở tấc son 1601 Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông 1332 Tấc son tấm lòng chân thành. Son được làm bằng một thứ đá đỏ. Lạch rạch, dòng nước nhỏ chảy Thương nhau xin nhớ lời nhau 1515 Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? 2468 Công hầu tước công và tước Huệ lan sực nức một nhà 1471 Có cây trăm thước có hoa bốn mùa 191493- Chở che đùm bọc thiếu chi 3185 Vườn xuân một thửa để bia muôn đời 3240 Vườn xuân một thửa hoặc vườn xuân một cửa, một gia đình êm Khi gió gác khi trăng sân 1295 Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì? 2478 Thanh vân mây xanh, tỷ dụ người thi đậu làm quan, có công Tình sâu mong trả nghĩa dày 1263 Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong 205496- Lấy trong ý tứ mà suy 1089 Sao cho thoát khỏi nữ nhi thường tình 2220 Nữ nhi thường tình tánh đàn Rằng trong ngọc đá vàng thau 1583 Dạy đem pháp bảo sang hầu sư huynh 2046 Ngọc đá vàng thau phân biệt được người tốt với người xấu. Ngọc với đá, vàng với Khúc đâu đầm ấm dương hòa 3199 Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời 204 Dương hòa khí trời ấm áp vào mùa Công tư vẹn cả hai bề 2479 Chuyện muôn năm cũ kể chi bây giờ? 3078 Công tư việc chung và việc Gương trong chẳng chút bụi trần 3173 Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao 3218 Khen lao khen Trời còn để có hôm nay 3121 Của tin gọi một chút này làm ghi 356 Của tin vật để làm tin. Làm ghi làm vật ghi nhớ, kỷ Trùng sinh ân nặng bể trời 3049 Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao! 310 Trùng sinh sinh ra thêm một lần nữa. Trọng nghĩa khinh tài coi lẽ phải và ân tình nặng hơn là tiền Sự đời đã tắt lửa lòng 3045 Sen vàng lãng đãng như gần như xa 190 Sen vàng gót chân của người con gái Những là sen ngó đào tơ 3137 Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng 3044 Sen ngó đào tơ người con gái trẻ tuổi, như ngó sen, như cây đào còn non. Nâu sồng quần áo người tu, nhuộm bằng củ nâu và củ Mùi thiền đã bén muối dưa 3043 Gà vừa gáy sáng, trời vừa rạng đông 3216106- Nhớ lời lập một am mây 3227 Ở trong dường có hương bay ít nhiều 122 Am mây chỗ người tu Gửi thân được chốn am mây 2053 Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời 3122 Am mây chỗ người tu Bây giờ tình mới tỏ tình 1809 Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong! 1464109- Chở che đùm bọc thiếu chi 3185 Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai 2414110- Tình xưa ơn trả nghĩa đền 2865 Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông 3204 Lam Điền nơi có tiếng là sản xuất ngọc quí. Mới đông vừa mới tượng Bởi lòng tạc đá ghi vàng 2855 Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao 2876 Tạc đá ghi vàng tạc vào đá, ghi vào vàng. Tiêu dao thong dong, tự Cửa trời rộng mở đường mây 2861 Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm 1506 Cửa trời triều đình. Đường mây đường làm quan. Chữ Hán là vân lộ’.113- Vội về sửa chốn vườn hoa 2821 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài 3252114- Nạn xưa trút sạch làu làu 2737 Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? 3208115- Bốn bề bát ngát mênh mông 2735 Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng 3180 Khấu đầu cúi rạp đầu xuống đất để Thấy nhau mừng rỡ trăm bề 2731 Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa 2990 Thảo am am tranh, chùa Đã nguyền hai chữ đồng tâm 555 Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen 2910 Đồng tâm cùng một Độ sinh nhờ đức cao dày 3055 Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời 3122 Độ sinh đưa chúng sinh vượt qua bể khổ, sang bên bờ thong Rằng trong tác hợp cơ trời 3063 Mà trong lẽ phải có người có ta! 3114 Tác hợp cơ trời ông trời khiến cho hai người cảm thấy hợp với nhau, lấy nhau. Cơ trời là bộ máy mầu nhiệm của thiên Còn non còn nước còn dài 557 Dẫu mòn bia đá dám sai tấc lòng 772121- Trong như tiếng hạc bay qua 481 Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa 1472122- Một lòng chẳng quản mấy công 2701 Ở đây cửa Phật là không hẹp gì 2076123- Song thu đã khép cánh ngoài 1073 Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân 1080 Song cửa sổ. Tế độ đưa người sang bờ bên kia, nơi có sự thảnh thơi, hạnh phúc. Trầm luân trôi lăn trong khổ Vầng trăng vằng vặc giữa trời 449 Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! 2202 Già già giặn, giàu kinh Thương sao cho vẹn thì thương 1359 Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh 1750 Lời phương tiện lời nói khéo léo có thể giúp được người khác. Hiếu sinh lòng trân quí sự Mấy lời tâm phúc ruột rà 3183 Tương tri dường ấy mới là tương tri! 3184 Lời tâm phúc lời nói từ lòng tin cậy. Tâm tim. Phúc bụng. Tương tri biết nhau, hiểu Đến bây giờ mới thấy đây 2281 Mà lòng đã chắc những ngày một hai 2282 Một hai thuở ban Nỗi mừng biết lấy chi cân 3027 Tuyết sương che chở cho thân cát đằng 902 Cát đằng người vợ lẽ. Cát, đằng là những loại dây leo, nhờ vào những cây to mà Có người khách ở viễn phương 67 Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên 1932 Khách viễn phương khách đến từ một nơi rất xa. Trần bụi bặm, cõi đời. – Duyên điều kiện. 130- Cỏ non xanh tận chân trời 41 Nhẹ nhàng nghiệp trước đền bồi duyên sau 2690 Nghiệp nghiệp chướng, tức là khó khăn, hậu quả do hành động ta gây ra. Duyên điều Những là nấn ná đợi tin 2945 Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao 214132- Gác kinh viện sách đôi nơi 1937 Nào lời non nước, nào lời sắt son 1632 Sắt son tấm lòng thành. Sắt cứng và son Chút riêng chọn đá thử vàng 2187 Thân này đã dễ mấy lần gặp tiên? 1704 Chọn đá thử vàng kén chọn người, xem họ có phải là người tốt Giọt rồng canh đã điểm ba 1865 Có dung kẻ dưới mới là lượng trên 1540 Giọt rồng giọt nước rỉ ra từ hồ nước bằng đồng có chạm hình rồng để đo thời gian. Lượng trên tấm lòng độ lượng của người Thương nhau xin nhớ lời nhau 1515 Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi 1630 Ấm lạnh, ngọt bùi chăm sóc từng miếng ăn, tấm áo cho cha Rằng trong ngọc đá vàng thau 1583 Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người! 2200 Ngọc đá vàng thau phân biệt được người tốt với người xấu. Ngọc với đá, vàng với thau. Tri kỷ người hiểu Chút riêng chọn đá thử vàng 2187 Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu? 2188 Chọn đá thử vàng kén chọn người, xem họ có phải là người tốt không. Can tràng gan ruột, tấm lòng của Tấm thân rày đã nhẹ nhàng 2293 Lòng đây lòng đấy chưa tường hay sao? 1362 Tường hiểu rõ Cùng trong một tiếng tơ đồng 1855 Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau 2410 Tiếng tơ đồng tiếng Long lanh đáy nước in trời 1603 Thấy trăng mà thẹn những lời non sông 916141- Hoàng lương chợt tỉnh giấc mai 1715 Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi 1030 Hoàng lương giấc kê vàng, giấc mộng. Giấc mai giấc ngủ nhẹ nhàng. Mai cây mai do tích Triệu Sư Hùng ngủ dưới gốc Lấy tình thâm trả nghĩa thâm 2683 Nước non để chữ tương phùng kiếp sau 1786 Tương phùng gặp lại Chắc rằng mai trúc lại vầy 1679 Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi 2424 Mai trúc tình nghĩa thân thiết. Mai và trúc thường được trồng gần nhau. Tấc riêng tâm sự ở trong lòng mình. Cất gánh để gánh lên vai. 144- Dưới đèn sẵn bức tiên hoa 2625 Một mầu quan tái bốn mùa gió trăng 1596 Tiên hoa giấy viết thư, chép thơ. Quan tái cửa ải nơi biên thùy, chỉ đường xa. 145- Nghĩ đi nghĩ lại quanh co 2023 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai 1042 Tấm son tấm lòng Tình sâu mong trả nghĩa dầy 1263 Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? 2428 Tri kỷ người hiểu Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi 2313 Tấm riêng riêng những nặng vì nước non 1330 Tề chỉnh uy nghi có trật tự, oai Bấy lâu khăng khít giải đồng 1341 Biển trầm luân lấp cho bằng mới thôi 1104 Giải đồng sợi dây buộc hai tấm lòng lại với Khi gió gác khi trăng sân 1295 Hoa xuân đương nhị ngày xuân còn dài 1006 Hoa xuân đương nhị hoa xuân đang nở, phô bày cánh và nhị hoa thật Đêm xuân một giấc mơ màng 849 Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung 1460 Đàn ngang cung những tiếng đàn không ăn nhịp với Thương vì hạnh trọng vì tài 1469 Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm 1506 Hạnh tánh nết của một người, biểu lộ qua những cử chỉ trong đời sống người Công tư hai lẽ đều xong 1379 Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia 1036 Công tư việc chung và việc Được lời như thế là may 1023 Cành kia chẳng phải cội này mà ra? 1322154- Thân ta ta phải lo âu 2015 Bỗng đâu mua não chuốc sầu nghĩ nao? 236 Chuốc sầu tự làm khổ mình. Chuốc Chở che đùm bọc thiếu chi 3185 Năm nay là một, nữa thì năm năm 2408156- Phím đàn dìu dặt tay tiên 3197 Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi 2344 Hoa Nô, Trạc Tuyền Hoa Nô là tên của Kiều khi làm người hầu cho Hoạn Thư. Trạc Tuyền là tên của Kiều khi được ở Quan Âm Các trong vườn của nhà Hoạn Thiện căn ở tại lòng ta 3251 Tương tri dường ấy mới là tương tri 3184 Thiện căn những hạt giống tốt có mặt trong ta. Tương tri hiểu bụng Gương trong chẳng chút bụi trần 3173 Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng 3180 Khấu đầu lạy với đầu chấm sát mặt Kệ kinh câu cũ thuộc lòng 2054 Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau 2736 Triều dâng hôm sớm mỗi ngày có hai lần thủy triều, buổi mai và buổi Một nhà sum hợp sớm trưa 2733 Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm 2852161- Bốn bề bát ngát mênh mông 2735 Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi? 3046162- Đội trời đạp đất ở đời 2171 Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng 2686163- Độ sinh nhờ đức cao dày 3055 Cành kia chẳng phải cội này mà ra? 1322 Độ sinh đưa cho chúng sinh vượt qua bể khổ mà sang bến bờ thong Chở che đùm bọc thiếu chi 3185 Tấm riêng riêng những nặng vì nước non 1330 Tấm riêng tấm lòng Giật mình thoắt tỉnh giấc mai 2727 Rằng không thì cũng vâng lời rằng không 1176 Giấc mai giấc ngủ nhẹ nhàng. Mai cây mai do tích Triệu Sư Hùng ngủ dưới gốc Lòng riêng riêng những kính yêu 2369 Những điều vàng đá phải điều nói không 2814 Điều vàng đá những điều sâu kín trong lòng mà đem nói cho người mình thương Cửa thiền then nhặt lưới mau 1935 Dạy đem pháp bảo sang hầu sư huynh 2046 Then nhặt lưới mau then cửa cài kín, lưới mau là lưới canh gác khít, người ngoài không lọt vào Cho hay giọt nước cành dương 1931 Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư 2506 Giọt nước cành dương giọt nước cam lồ của đức Bồ Tát Lắng Nghe Quan Thế Âm, được dùng cành dương liễu mà rảy. Vương sư quân đội của triều Gác kinh viện sách đôi nơi 1937 Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương 2346170- Nâu sồng từ trở màu thiền 1933 Dạn dày cho biết gan liền tướng quân 2518 Nâu sồng quần áo người tu, nhuộm bằng củ nâu và củ sồng. Gan liền tướng quân lòng dũng cảm của một vị tướng Tình xưa ân trả nghĩa đền 2865 Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu 1934172- Thương sao cho vẹn thì thương 1359 Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên 1932173- Thấy màu ăn mặc nâu sồng 2039 Ở đây cửa Phật là không hẹp gì 2076 Nâu sồng quần áo người tu, nhuộm bằng củ nâu và củ Tàng tàng trời mới bình minh 1917 Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra 2048 Tàng tàng trời vừa Gửi thân được chốn am mây 2053 Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương 2058 Ngọn đèn khêu nguyệt thức khuya đọc sách, tim đèn cháy sáng có hình của con trăng lưỡi liềm. Tiếng chày nện sương thức sớm, ta thỉnh chuông đại hồng mà giống như đang nện vào đám sương Mai cốt cách tuyết tinh thần 17 Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng 3180 Mai cốt cách hình dáng thanh tao như cành mai. Tuyết tinh thần tấm lòng trong sáng như tuyết trắng. Khấu đầu lạy xuống với đầu mình chấm sát mặt đất. – Cao thâm ơn nghĩa cao Sư đà hái thuốc phương xa 3231 Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang 531 Gia đồng người giúp việc ở trong Bẻ lau vạch cỏ tìm đi 3003 Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ 3078 Sự muôn năm cũ chuyện ngày xửa ngày xưa, lâu lắm Sự đời đã tắt lửa lòng 3045 Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần 2702 Chuyển vần sự xoay vần, thay đổi ở trong thiên Người sao hiếu nghĩa đủ đường 2653 Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây 2622 Hiếu nghĩa có lòng kính cẩn với cha mẹ, thương yêu với anh em, bạn bè. Kiếp đoạn trường giai đoạn của đời sống mà con người phải chịu nhiều khổ Ấy mới gan ấy mới tài 2006 Thong dong nối gót thư trai cùng về 1992 Thư trai phòng đọc Dịp đâu may mắn lạ dường 1291 Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành 1092 Lạ dường rất lạ kỳ. Ngậm gương nửa vành mặt trăng chỉ ló lên phân Dưới trăng quyên đã gọi hè 1307 Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương 2480 Quyên chim tu Dẫu rằng sông cạn đá mòn 1975 Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang 2816 Cho đang mà lại cam chịu cho được185- Gọi là trả chút nghĩa người 2785 Dẫu trong nguy hiểm dám dời ước xưa 2256186- Khi nên trời cũng chiều người 2689 Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông 2748 Khi nên gặp lúc thuận lợi. Gió đông gió từ phương đông thổi lại, gió mùa Còn nhiều hưởng thụ về lâu 2723 Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi 1630 Ấm lạnh, ngọt bùi chăm sóc từng miếng ăn tấm áo cho cha Non quê thuần vược bén mùi 1593 Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông 2634 Thuần rau rút. Vược cá Vậy nên những chốn thong dong 2663 Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa 2850 Phím đồng phím đàn làm bằng gỗ ngô đồng, ngụ ý chỉ cây Khi ăn ở lúc ra vào 2845 Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình 3016 Xiết bao nhiều không thể kể Bây giờ mới rõ tăm hơi 1873 Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm 2248 Tăm hơi tin tức về một người nào Lầu mai vừa rúc còi sương 867 Trông ra ác đã ngậm gương non đoài 425 Lầu mai chòi canh vào lúc buổi sáng. – Còi sương tiếng còi báo hiệu lúc buổi sáng. Ác mặt trời. – Ngậm gương đã lặn xuống phân Xem qua sư mới dạy qua 2049 Ấy là tình nặng ấy là ơn sâu 1966194- Lại đây xem lại cho gần 2193 Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời 2062 Vẻ ngân ánh sáng của dãi ngân Chùa đâu trông thấy nẻo xa 2035 Có dung kẻ dưới mới là lượng trên 1540 Lượng trên tấm lòng rộng rãi, dễ chịu của người có vai vế Ở ăn thì nết cũng hay 1533 Hẳn rằng mai có như vầy cho chăng 1024 Nết tánh tình, thói Khi ăn ở lúc ra vào 906 Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? 3208198- Một phen tri kỷ cùng nhau 3213 Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì 2412 Tri kỷ người hiểu rõ tâm sự của mình. Cơ duyên những gì sẽ xảy ra với ta do guồng máy thiên nhiên sắp đặt. Cơ là máy. Duyên là điều kiện. 199- Một tay gây dựng cơ đồ 2462 Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên 3224 Cơ đồ sự Ai ngờ lại họp một nhà 3177 Một thiên tuyệt bút gọi là để sau 2626 Thiên tuyệt bút bài thơ rất xuất sắc, có khi là bài thơ cuối cùng của một danh Đường đường một đấng anh hào 2169 Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành! 674 Anh hào bậc tài trí hơn Thấy nhau mừng rỡ trăm bề 2731 Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân 1294203- Trong tay mười vạn tinh binh 2905 Qui sư, qui Phật tu hành bấy lâu 2044 Tinh binh lính tuyển chọn thật Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra 1725 Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? 3232205- Cửa chiền vừa cữ cuối xuân 2061 Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài 2418 Cửa chiền cửa chùa, chùa Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi 2137 Tìm hoa quá bước xem người viết kinh 1986207- Nghĩ cho khi gác viết kinh 2367 Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong 1464 Bất bình phật ý, không bằng Nghe lời khuyên nhủ thong dong 1495 Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào 1488209- Thấy lời thủng thỉnh như chơi 1589 Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân 1080 Tế độ đưa người sang bờ bên kia, nơi có sự thảnh thơi, hạnh phúc. Trầm luân trôi lăn trong khổ Gió quang mây tạnh thảnh thơi 2063 Có người đàn việt lên chơi cửa già 2064 Quang trời sáng sủa, không có mây. – Tạnh hết mưa gió. Đàn việt người tới cúng vái, thực tập ở chùa. – Già già lam, nhà chùa.
1 Trong câu thơ “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non” từ xuân được sử dụng với nghĩa nào? A. Nghĩa gốc chỉ mùa xuân B. Nghĩa chuyển chỉ tuổi trẻ C. Nghĩa Hán Việt vì đây là từ mượn D. Cả 3 đáp án trên
ngày xuân em hãy còn dài