nguồn gốc của văn học

Nguồn gốc tên gọi chợ Bến Thành. Trần Hưng. •. Chủ nhật, 21/08/2022. Nhiều người, kể cả không phải dân Sài Gòn, đều biết đến ngôi chợ nổi tiếng nhất của Sài Gòn này. Tuy nhiên không phải ai cũng biết tại sao lại gọi chợ là chợ Bến Thành. Một số điểm chính của phần mềm kiểm tra đạo văn Viper có thể kể đến là: - Hoàn toàn miễn phí. - Chính xác gần như 100%. - Kiểm tra bài viết bằng cách so sánh với 10 tỉ nguồn. - So sánh song song văn bản gốc và văn bản bị đạo văn. Thông báo từ BTC của Giải Nobel về người nhận giải Nobel văn học năm 2022. (Ảnh: Nobel Prize) Công bố người chiến thắng văn học năm nay, Viện Hàn lâm Thụy Điển cho biết Annie Ernaux "nhất quán và từ các góc độ khác nhau, nhìn nhận cuộc sống qua sự chênh lệch mạnh mẽ về giới tính, ngôn ngữ và giai cấp" và Phát hiện, bắt giữ khoảng 2.500 chai rượu ngoại không có nguồn gốc, xuất xứ. Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh vừa phát hiện một xe ô tô chở rượu ngoại các loại, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ. Lực lượng Cảnh sát giao thông kiểm tra • Bước 1 : Lựa chọn chủ đề • Bước 2 : Tìm hiểu tình trạng hiện tại và xác định mục tiêu • Bước 3 : Phân tích dữ kiệu đã thu thập để xác định nguyên nhân gốc rễ. • Bước 4 : Xác định biện pháp thực hiện dựa trên cơ sở phân tích dữ liệu. • Bước 5 : Thực hiện biện pháp • Bước 6 : Xác nhận kết quả thực hiện biện pháp mimpi bertemu ayah yang sudah meninggal togel. Văn học là một hình thái ý thức xã hội, bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan điểm, một cách nhìn, một tình cảm đối với đời sống. Nhưng văn học nói riêng cũng như nghệ thuật nói chung, không giống các hình thái ý thức xã hội khác bởi có những đặc thù riêng mang tính thẩm mĩ về đối tượng, nội dung và phương thức thể trưng đối tượng và nội dung của văn họcĐối tượng của văn họcNội dung là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau của văn học so với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, đạo đức, tôn giáo, lịch sử, địa lí, sinh học… Nội dung, trước hết là cái được nhận thức, chiếm lĩnh từ đối đối tượng của văn học là gì?Mĩ học duy tâm khách quan từ thời Platông đến Hêghen đều cho rằng đối tượng của nghệ thuật chính là biểu hiện của thế giới thần linh, của những linh cảm thần thánh, của ý niệm tuyệt đối – một thế giới sản sinh trước loài người. Nghĩa là, mọi đối tượng của nghệ thuật cũng như của văn học đều là thế giới của thần linh, của những điều huyền bí, cao cả. Văn học nghệ thuật suy cho cùng là sự hồi tưởng và miêu tả thế giới ấy, một thế giới không thuộc phạm vi đời sống hiện điểm này đã đề cao và thần thánh hóa đối tượng của văn học nghệ thuật. Cho nên không lạ gì khi chúng ta bắt gặp hầu hết đối tượng phản ánh của văn học, nghệ thuật thời cổ chính là các câu chuyện về các vị thần linh từ người khổng lồ Khoa Phụ đuổi bắt mặt trời, Nữ Oa vá trời trong thần thoại Trung Quốc, đến các vị thần trên đỉnh Olempơ và con cháu của của các vị thần đó như Hécquyn, Asin trong văn học Hi Lạp cổ đại, rồi Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Lạc Long Quân và Âu Cơ của người học duy tâm chủ quan lại cho rằng, đối tượng nghệ thuật chính là những cảm giác chủ quan, là cái tôi bề sâu trong bản chất con người của nghệ sĩ, không liên quan gì đến đời sống hiện thực. Đây là một quan điểm đầy mâu thuẫn, bởi mọi cảm giác của con người bao giờ cũng chính là sự phản ánh của thế giới hiện các nhà mĩ học duy vật từ xưa đến nay đều khẳng định, đối tượng của nghệ thuật chính là toàn bộ đời sống hiện thực khách quan. Tsécnưsépxki đã nói Phạm vi của nghệ thuật gồm tất cả những gì có trong hiện thực trong thiên nhiên và trong xã hội làm cho con người quan tâm1. Quan điểm này đã đưa đối tượng của nghệ thuật về gần gũi với hiện thực đời ra, từ thời xa xưa, con người đã biết văn học nghệ thuật bắt nguồn từ đời Trung Quốc, thuyết cảm vật đã chỉ rõ mùa xuân, mùa thu, các mùa thay thế nhau, làm cảnh vật biến đổi, tâm hồn cũng thay đổi theo. Còn theo các thuyết thi ngôn chí, thi duyên tình văn chương tạo nên do con người có cảnh ngộ trong lòng mình muốn bộc lộ, mà cảnh ngộ đó cũng là do tác động của đời sống tạo vậy, có thể nói, đối tượng của văn học, nghệ thuật là toàn bộ đời sống xã hội và tự nhiên. Tsécnưsépxki từng nói “Cái đẹp là cuộc sống” vì lí do đó. Nhưng phạm vi này vô cùng rộng. Bởi lẽ, nếu nói đối tượng của văn học là đời sống thì chưa tách biệt với đối tượng của các ngành khoa học và các hình thái ý thức xã hội khác như lịch sử, địa lí, hóa học, y học, chính trị, đạo đức… Văn học phải có cách nhận thức và thể hiện đối tượng khác như đối tượng của triết học là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; đối tượng của lịch sử là các sự kiện lịch sử, sự thay thế nhau của các chế độ; đối tượng của đạo đức học là các chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ người với người… thì đối tượng của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực, nhưng chỉ là hiện thực có ý nghĩa đối với đời sống tâm hồn, tình cảm con người. Tức là, dù văn học có miêu tả thế giới bên ngoài như thiên nhiên, lịch sử, chiến tranh, hòa bình…, văn học cũng chỉ chú ý tới quan hệ của chúng đối với con người. Văn học, nghệ thuật nhìn thấy trong các hiện tượng đời sống những ý nghĩa “quan hệ người kết tinh trong sự vật” giới khách quan trong văn học là thế giới được kết cấu trong các mối liên hệ với con người. Người ta gặp tất cả các hình thức đời sống trong văn học, từ những hiện tượng tự nhiên “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”, tiếng sấm rền vang, giọt mưa rơi tí tách, tiếng sóng ào ạt xô bờ, một tiếng chim ban mai đến những biến cố lịch sử lớn lao. Nhưng cái văn học chú ý là kết quả, ý nghĩa của tất cả những hiện tượng đời sống đó đối với con người. Văn học không nhìn thiên nhiên như một nhà sinh học, một nhà khí tượng học, mà thấy ở đó tâm trạng, số phận, vận mệnh con người tiếng chim ban mai là âm thanh của niềm vui sống, đám mây trắng vô tận là hình ảnh của sự hư vô, cái hư ảo, phù du của kiếp người. Ngay cả các hiện tượng lịch sử cũng được văn học nhìn nhận dưới góc độ khác biệt. Sau những những biến cố dữ dội của cách mạng Nga tháng Hai và tháng Mười năm 1917, Rôtsin đã nói với Katia “Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ còn tấm lòng em dịu dàng ngàn đời bất diệt” Con đường đau khổ – A. Tônxtôi. Khi nhìn thấy ngôi sao chổi trên bầu trời Matxcơva năm 1812, trong lòng Pie Bêdukhốp tràn ngập những tình cảm cao thượng và mới mẻ Chiến tranh và hòa bình – L. Tônxtôi. Điều văn học quan tâm là tác động của những biến cố lịch sử, của tự nhiên, của thế giới xung quanh tới tâm hồn con người chứ không phải bản thân những biến cố vậy, đối tượng của văn học là hiện thực mang ý nghĩa người. Văn học không miêu tả thế giới trong ý nghĩa chung nhất của sự vật. Điều mà văn học chú ý chính là một “quan hệ người kết tinh trong sự vật” dòng sông là nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, đầm sen là nơi gặp gỡ, giao duyên, con đê làng là ranh giới của hồn quê và văn minh thị thành… Đó chính là những giá trị nhân sinh thể hiện trong sự vật. Có thể nói, đối tượng của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung, là toàn bộ thế giới hiện thực có ý nghĩa đối với sự sống con người, mang tư tưởng, tình cảm, khát vọng của con người. “Nghệ thuật được tác thành bởi con người. Nó là sự biểu đạt của con người trước thế giới tự nhiên và đời sống” Bách khoa toàn thư Comtorp’s. Trong toàn bộ thế giới hiện thực đó, con người với toàn bộ các quan hệ của nó là đối tượng trung tâm của văn bộ thế giới khi được tái hiện trong tác phẩm đều được tái hiện dưới con mắt một con người cụ thể. Đó có thể là người kể chuyện, là nhân vật hoặc nhân vật trữ tình… Con người trong văn học trở thành những trung tâm giá trị, trung tâm đánh giá, trung tâm kết tinh các kinh nghiệm quan hệ giữa con người và thế giới. Khi lấy con người làm hệ quy chiếu, làm trung tâm miêu tả, văn học có một điểm tựa nhìn ra thế giới, bởi văn học nhìn thế giới qua lăng kính của những con người có cá tính riêng. Do đó, miêu tả con người là phương thức miêu tả toàn thế học không miêu tả con người như một nhà triết học, chính trị học, đạo đức học, y học, giải phẫu học…, mà thấy đó là con người có lịch sử cá nhân, có tính cách, có tình cảm, có số phận với những quan hệ cụ thể, cá biệt. Khi nhà thơ Tố Hữu viết về Bác Hồ Cha đã đi đày đau nỗi riêng, Còn nghe dưới gót nặng dây xiềng, Mẹ nằm dưới đất hay chăng hỡi, Xin sáng lòng con ngọn lửa thiêng Theo chân Bác ta thấy hiện lên hình ảnh Bác Hồ không phải như một nhà chính trị trừu tượng mà là một con người có tâm hồn, tình cảm và số phận người trong văn học còn tiêu biểu cho những quan hệ xã hội nhất định, vì vậy, con người được miêu tả vừa như những kiểu quan hệ xã hội kết tinh trong những tính cách tham lam, keo kiệt, hiền lành, trung hậu…, vừa cả thế giới tâm hồn, tư tưởng của chính họ. Có thể nói, toàn bộ lịch sử văn học của nhân loại chính là lịch sử tâm hồn con người. Vì thế, con người trong văn học không giống với con người là đối tượng của các ngành khoa học khác như lịch sử, đạo đức, sinh học, y học… Điều đó khẳng định tính không thể thiếu được của văn học trong lịch sử ý thức nhân cạnh con người là đối tượng chính, văn học còn hướng tới đời sống trong toàn bộ tính phong phú và muôn vẻ của các biểu hiện thẩm mĩ của nó. Đó là toàn bộ đời sống trong tính cụ thể, sinh động, toàn vẹn, với mọi âm thanh, màu sắc, mùi vị… vô cùng sinh động và gợi cảm. Văn học cũng như nghệ thuật luôn hướng tới cái đẹp của đời sống, đặc biệt là cái đẹp về hình thức của sự vật ánh chiều tà đỏ ối, một lá ngô đồng rụng, giọt sương mai long lanh. Nhưng tất cả cái đẹp này của cuộc sống cũng đều được tái hiện dưới con mắt của một con người cụ thể với những kinh nghiệm, ấn tượng và sự tinh tế. Có những bài thơ chỉ như bức tranh thiên nhiên, thiếu vắng con ngườiLạc hà dữ cô lộ tề phi,Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc Ráng chiều vạc lẻ cùng bay,Nước thu cùng với trời thu một màu Vương BộtNhưng bức tranh thực sự vẫn bộc lộ gián tiếp về cái nhìn của con người về tự nhiên, một tự nhiên giàu màu sắc và nhịp điệu, giàu sức sống và sức biểu hiện, làm thư thái tâm hồn con người. Đúng như Hêghen nhận xét “Đối tượng của thơ không phải là mặt trời, núi non, phong cảnh mà là những hứng thú về tinh thần”4, hoặc “Thiên nhiên là mẫu mực vĩnh hằng của nghệ thuật, và trong thiên nhiên thì đẹp đẽ và cao quý nhất vẫn là con người” Biêlinxki5. Vì vậy, có thể khẳng định, đối tượng của văn học là toàn bộ thế giới mà đời sống của con người là trung tâm. M. Gorki nhận xét “Văn học là nhân học” chính vì những lí do dung của văn họcNội dung của văn học thống nhất với đối tượng của nó. Nội dung văn học cũng chính là con người với những quan hệ của nó ở một bình diện phức tạp hơn Nội dung văn học là toàn bộ đời sống đã được ý thức, cảm xúc, đánh giá và phán xét phù hợp với một tư tưởng về đời sống, một cảm hứng và một lí tưởng thẩm mĩ và xã hội nhất định. Đó là một nội dung hòa quyện giữa hai mặt khách quan và chủ quan, vừa có phần khái quát, tái hiện đời sống khách quan vừa có phần bắt nguồn từ nhận thức, cảm hứng và lí tưởng của nghệ dung khách quan của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực được tái hiện, từ các vấn đề lịch sử, con người, phong tục, đạo đức, xã hội, từ các chi tiết hiện thực đời sống nhỏ nhặt đến những biến cố xã hội lớn lao. Song như Lênin đã phát biểu về L. Tônxtôi “Nếu trước mắt chúng ta là một nghệ sĩ thực sự vĩ đại, thì chí ít trong tác phẩm của anh ta cũng phản ánh được vài ba khía cạnh căn bản của cuộc cách mạng”6. Điều đó có nghĩa là nội dung của đời sống khi đi vào tác phẩm văn học còn phải phản ánh được những chiều rộng, chiều sâu hiện thực và tầm cao tư tưởng của thời đại mình. Theo Lênin, Tônxtôi sở dĩ vĩ đại, bởi ông đã chỉ ra được sự bất bình, phẫn nộ của hàng triệu nông dân Nga khi bắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phơi bày một bức tranh hiện thực đầy rẫy những bất công, oan trái của xã hội phong kiến, mà thậm chí màn đoàn viên cũng là “bản cáo trạng cuối cùng” theo lời đánh giá của Xuân Diệu. Các nghệ sĩ lớn mọi thời đại đều là những người đứng giữa trung tâm của các vấn đề rộng lớn của hiện thực. Từ Khuất Nguyên đến Đỗ Phủ, từ Thi Nại Am đến Tào Tuyết Cần, từ Secxpia đến Bairơn, Đichken, Tháccơrây, Bandắc, Huygô, Đôtxtôiépxki, Puskin, Tônxtôi, Gôgôn, Gorki, Hêminguê, Sôlôkhốp, Macket… không ai đứng bên lề các cơn bão táp của lịch sử và số phận của nhân dân. Các tác phẩm của họ đều đề cập đến số phận rộng khắp của nhân dân trên các vấn đề trung tâm của thời đại mình niềm khao khát tự do, hạnh phúc, sự bạo ngược của cường quyền, quá trình làm giàu của tư sản và sự bần cùng hóa con người, các cuộc chiến tranh giành quyền bính của các tập đoàn phong kiến, các cuộc khởi nghĩa của nông dân, số phận con người trong dòng thác lịch sử cách mạng…Bên cạnh đó, còn có những nội dung khách quan không mang những tầm vóc hiện thực lớn lao song ít nhiều đều chứa đựng ý nghĩa nhân sinh. Cứ tưởng rằng thế giới trong tác phẩm của Sêkhốp nằm bên lề những con đường lớn của lịch sử, những xung đột phức tạp của thời đại, nhưng nó lại đụng chạm đến lịch sử ở bề sâu tâm hồn và đời sống, qua những nỗi chán chường, sự đơn điệu, cuộc đời ngưng đọng7. Thơ ca trữ tình, từ những bài ca dân gian giản dị, mộc mạc đến những bài thơ tâm tình đều có những ý nghĩa nhân sinh đặc biệt niềm yêu cuộc đời, nỗi xót xa thân phận, niềm mơ ước và khát vọng về hạnh phúc, tình cảm thiết tha nồng thắm về tình mẹ con, nghĩa vợ chồng… Tất cả những nội dung đó đều góp phần bộc lộ thế giới tinh thần vô cùng phong phú của con học phản ánh nội dung ý thức xã hội của thời đại mình. Văn học là sự vật thể hóa, ngưng kết hóa đời sống lịch sử với cấu trúc tâm lí thẩm mĩ của con người thuộc các thời đại là như chỉ miêu tả đời sống khách quan nội dung mang tính khách quan, gắn liền với đối tượng, trong văn học còn thể hiện những tình cảm xã hội, ước mơ, khát vọng, cảm hứng, lí tưởng thẩm mĩ, những chân lí được thể nghiệm, những thiên hướng đánh giá… của chính tác giả. Toàn bộ đời sống hiện thực đi vào tác phẩm đã hóa thành nỗi niềm, khát vọng. Đọc Truyện Kiều, ta đâu chỉ thấy bộ mặt đời sống hiện thực xã hội phong kiến mà còn cảm nhận “tấm lòng sáu cõi, rộng nghìn đời” của Nguyễn Du thấm từng con chữ. Người xưa nói “viết như máu chảy đầu ngọn bút” chính là nói đến phần nội dung đầy cảm xúc chủ quan mãnh liệt này của chính bản thân con người sáng tác. Như vậy, nội dung chủ quan của văn học là hiện thực được nhìn nhận dưới con mắt nghệ sĩ, được khái quát theo kiểu nghệ thuật, được phơi bày dưới ánh sáng một thế giới quan, một lí tưởng thẩm mĩ và những thiên hướng tình cảm nhất dung chủ quan có những khi được phát biểu trực tiếp, nhưng phần lớn ẩn đằng sau cách miêu tả hiện thực đời cấu trúc chủ quan của các yếu tố nội dung, yếu tố tình cảm là quan trọng nhất. Tình cảm, là thái độ, là phản ứng của con người đối với hiện thực. Đó là sự nhạy cảm và chiều sâu của những rung động tâm hồn, là sự phong phú của của các cung bậc cảm xúc, là sự mãnh liệt, say mê của lí tưởng, là sự phẫn nộ của con tim và khối óc… Tình cảm, do đó, vừa là đối tượng mô tả, vừa là nội dung biểu hiện của nghệ thuật nói chung, là động cơ sáng tạo, làm cho cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng trở thành bức tranh, lời thơ, nốt nhạc, pho tượng. Tình cảm được thể hiện qua nhiệt tình, qua trực giác, qua cảm xúc thấm đẫm câu văn, lời thơ Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô Chim trong lồng – Nguyễn Hữu Cầu, Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời Truyện Kiều – Nguyễn Du. Có những câu ca dao, lời lẽ rất đơn giản, nhưng vẫn là tác phẩm văn học bởi sức nặng của tình cảm chứa đựng trong đó Chiều chiều ra đứng ngõ sau, ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Không có yếu tố tình cảm không thể có tác phẩm văn cảm trong văn học là tình cảm mang tính xã hội. Đó là loại tình cảm dù là của cá nhân nhưng vẫn hướng tới mẫu số chung trong tình cảm nhân loại tình yêu quê hương, niềm thương cha nhớ mẹ, lòng chung thuỷ, khát vọng tự do, hạnh phúc, chí khí bất khuất trước cường quyền… Chính những tình cảm như vậy mới có khả năng chia sẻ và “lây lan tình cảm” L. Tônxtôi, làm cho văn học không chỉ là tiếng nói riêng của một người mà trở thành tiếng nói chung của mọi người, thể hiện sâu sắc dấu ấn tinh thần thời đại và dân tộc. Tình cảm trong văn học còn thấm đượm màu sắc thẩm mĩ đó là những tình cảm hướng tới những giá trị thẩm mĩ. Thơ ca cổ điển hướng tới cái đẹp hài hòa, tĩnh lặng; thơ ca lãng mạn thiên về hai thái cực rực rỡ và u buồn; thơ ca cách mạng chiêm ngưỡng vẻ đẹp anh hùng, cao cả như những tiêu chuẩn của lí tưởng thẩm mĩ từng thời nhiên, nghệ thuật không chỉ là tiếng nói tình cảm. Biêlinxki cho rằng, bản thân tình cảm chưa tạo thành thi ca. Bên cạnh tình cảm, nghệ thuật còn mang sức mạnh của tư tưởng và nó dùng tiếng nói của tình cảm để thể hiện quan niệm, lí tưởng thẩm mĩ của nghệ sĩ. Nghệ thuật bởi vậy không chỉ là tiếng nói tâm sự, giãi bày mà còn là tiếng nói của những tình cảm lớn, những tư tưởng trị của tác phẩm còn nằm ở tầm tư tưởng của nó. Những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng là nhà tư tưởng lớn. Qua tác phẩm, người nghệ sĩ thể hiện nguyện vọng, tư tưởng, tâm tư, yêu cầu xã hội. Tính cấp bách, chiều sâu, tầm cỡ và khuynh hướng xã hội – lịch sử của những tư tưởng và vấn đề được nêu ra xác định giá trị tác phẩm. Giá trị của những tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình L. Tônxtôi, Con gái viên đại úy Puskin, Hội chợ phù hoa Tháccơrây, Tấn trò đời Bandắc, Con đường đau khổ A. Tônxtôi, Chuông nguyện hồn ai Hêminguê… nằm ở nội dung tư tưởng của những tác phẩm tư tưởng tác phẩm không đơn thuần khô khan, thuần lí mà phải biến thành khát vọng, cảm hứng, thấm đượm tình cảm. Tư tưởng về nhân đạo trước hết phải gắn liền với nỗi đau về số phận con người, lòng thông cảm sâu xa Truyện Kiều – Nguyễn Du, niềm tự hào về sức mạnh và khả năng con người Hămlét – Sếchxpia. Tư tưởng về tự do thường gắn liền với nỗi đau về sự ràng buộc, về những giới hạn của con người thơ Puskin. Tất nhiên, cũng có tác phẩm nghệ thuật mà ta thấy ở đó chủ yếu là kinh nghiệm, tư tưởng, như những câu tục ngữ, những loại thơ triết lí thơ hai ku chẳng hạn, nhưng về cơ bản, những loại nghệ thuật đó cũng không tách rời được tình cảm ở phương thức biểu đạt, ở động cơ sáng tạo…Tác phẩm văn học luôn mang khát vọng thiết tha muốn thể hiện một quan niệm về chân lí đời sống chân lí về cái đẹp, cái thật, thể hiện trong các hiện tượng tự nhiên, trong tính cách và phẩm chất con người, trong các quan hệ người với người…. Đó là những chân lí đời sống mà nghệ sĩ đã thể nghiệm và muốn thuyết phục mọi người thấu hiểu. Trong thiên truyện Số phận con người của Sôlôkhốp là chân lí lòng nhân ái có thể giúp con người vượt lên trên số phận bất hạnh. Trong cảnh sống khốn cùng vì đói khát, con người vẫn khát khao hạnh phúc và có quyền được hạnh phúc là chân lí của tác phẩm Vợ nhặt của Kim liền với khẳng định chân lí là cảm hứng mãnh liệt, một trạng thái tình cảm mạnh mẽ, khẳng định phủ định một điều gì đó. Cảm hứng tự do trong những câu chuyện thời kì sáng tác đầu tay của M. Gorki được thể hiện với hình ảnh chàng trai Đancô giơ cao trái tim mình làm ngọn đuốc tỏa ánh sáng dẫn đường cho mọi người đến với tự do, với cô gái Rátđa thà bị người yêu giết chết chứ không muốn chàng từ bỏ giấc mơ tự do của mình. Tất cả những nhiệt tình khẳng định đó biểu hiện thành một khuynh hướng tư tưởng nhất định, phù hợp với những xu hướng tư tưởng đang tồn tại trong đời ra, trong văn học, hai nội dung khách quan và chủ quan này không hề tách bạch, mà xuyên thấm trong hình tượng. Khi chúng ta chiêm ngưỡng một hình tượng nghệ thuật, trong đó đã bao hàm sự phản ánh, đánh giá, cũng nhưng sự lí giải đời sống một cách trọn lại, nội dung của văn học là cuộc sống được ý thức về mặt tư tưởng và giá trị, gắn liền với tình cảm, với một quan niệm về chân lí đời sống, với cảm hứng thẩm mĩ và thiên hướng đánh giá. Nhận thức nội dung của văn học, ý thức được những ưu thế riêng của văn học, cho phép khẳng định, văn học có thể đáp ứng những nhu cầu xã hội phổ biến mà các hình thái ý thức xã hội khác không đáp ứng được.Nguồn tham khảo Lê Lưu Oanh, Giáo trình lý luận văn học, ĐH Sư phạm Hà Nội1Tsécnưsépki. Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực, tập 2, Nxb Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Matxcơva, 1949, trang 64 tiếng Nga. Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử… Lí luận văn học. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 1242Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học sách đã dẫn, trang 1253Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học sách đã dẫn, trang 1264Hêghen. Mĩ học, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999, trang 4845Biêlinxki. Nhận định về văn học Nga năm 1847, Tư liệu khoa Ngữ văn ĐHSPHN, 2000, trang 386Lênin. Bàn về Văn hóa Văn học, Nxb Văn học, Hà Nội, 1979, trang 2497Pôxpêlốp. Những vấn đề phát triển lịch sử văn học, Nxb Giáo dục, Matxcơva, 1971, trang 25 tiếng Nga Bạn đang quan tâm đến Văn học là gì? Đặc trưng và Yếu tố cơ bản trong tác phẩm văn học phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé! Video đầy đủ Văn học là gì? Đặc trưng và Yếu tố cơ bản trong tác phẩm văn học Văn học một cụm từ nghe rất quen trong cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta, ai cũng đã tiếp xúc với văn học khá nhiều. Vậy nhưng, để hiểu rõ tác phẩm văn học là gì? Làm sao để hiểu được đâu là một tác phẩm hay? Hãy cùng PHÊ BÌNH VĂN HỌC tìm hiểu rõ hơn về điều này, cũng như yếu tố cơ bản được thể hiện trong tác phẩm văn học ở nội dung của bài viết sau đây nhé ! Văn học là một hình thức được các nhà văn sáng tác, tái hiện lại các vấn đề, sự vật hiện tượng trong đời sống xã hội – con người. Văn học có được là dựa vào phương thức sáng tạo ở sự hư cấu, nội dung thể hiện qua ngôn ngữ ở từng đề tài sáng tác. Chính vì vậy, cũng có khá nhiều ý kiến đưa ra khái niệm về văn học hiểu chung cùng với khái niệm của văn chương và được dùng một cách lẫn lộn. Văn học là gì Tuy vậy, nhìn tổng quát thì khái niệm của văn học sẽ có nghĩa rộng hơn rất nhiều so với văn chương. Bởi văn chương chỉ nhấn mạnh nhiều đến tính thẩm mỹ, sự sáng tạo văn học cũng như phương diện ngôn ngữ và nghệ thuật của ngôn từ. Đặc biệt hơn, văn chương thì dùng ngôn ngữ làm phương tiện chính để xây dựng lên hình tượng của nhân vật, phản ánh cũng như biểu hiện đời sống nhân vật. Còn văn học, ngoài ngôn ngữ thì nó còn có thêm nhiều yếu tố khác, giúp làm nổi bật lên nội dung của tác phẩm. Văn học có khá nhiều thể loại, trong đó gồm có truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, lý luận phê bình. Nói về lịch sử hình thành văn học, thì nó đã có từ rất lâu đời. Theo năm tháng, văn học ngày càng phát triển với văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng với văn học viết. Trong đó, văn học viết có lịch sử phát triển dựa vào dạng văn xuôi hoặc thơ và đây chính là các nguồn tài liệu – kiến thức đưa tới độc giả, người nghe sự sáng tạo, giải trí và sảng khoái. Tuy nhiên, các bạn lưu ý là không phải tất cả các văn bản viết đều được xếp vào dạng văn học nhé. Bởi có một vài tài liệu, được ghi chép lại rồi biên soạn để trở thành dữ liệu thì đó không phải là văn học. Đặc trưng của văn học a. Đặc trưng về đối tượng phản ánh của văn học *Những quan niệm khác nhau về đối tượng phản ánh của văn học -Những nhà mỹ học duy tâm khách quan +Văn học hướng nhận thức về thế giới vĩnh hằng của Thượng đế, của cái ý niệm có trước loài người. Sự chiêm nghiệm, sự hồi tưởng và miêu tả cái đẹp của ý niệm tuyệt đối là đối tượng của văn học. +Đối tượng của văn học không nằm ở thế giới hiện thực mà chỉ có trong ý niệm, nó hiện hình qua linh ứng của người nghệ sĩ. -Những nhà mỹ học duy tâm chủ quan đối tượng của văn học nằm ngay trong những cảm giác chủ quan của người nghệ sĩ và nó là cái tôi bề sâu không liên quan gì đến đời sống hiện thực. -Những nhà duy vật chủ nghĩa +Đối tượng phản ánh của văn học nằm ở trong hiện thực khách quan và đối tượng đó phải mang tính thẩm mĩ => Quan niệm đúng đắn, tiến bộ, đầy đủ. *Những đặc trưng cơ bản -Đối tượng của văn học là toàn bộ sự sống của con người, phản ánh +Tư tưởng, tình cảm, đạo đức của con người. +Con người với những giai cấp, bản chất của nó. b. Đặc trưng về nộ dung phản ánh của văn học -Là đối tượng đã được ý thức, tái hiện có chọn lọc và khái quát trong tác phẩm và biểu hiện trong tác phẩm như là một tư tưởng về đời sống hiên thực. -Đặc điểm quan trọng của nội dung văn học là khát vọng tha thiết của nhà văn muốn thể hiện một quan niệm về chân lí của đời sống. -Nội dung của văn học là cuộc sống được ý thức về mặt tư tưởng, giá trị. Nó không chỉ gắn liền về một quan niệm với chân lí của đời sống mà còn gắn liền với cảm hứng thẩm mĩ và thiên hướng đánh giá. c. Đặc trưng về phương tiện phản ánh của văn học *Tính chính xác và tinh luyện -Tính chính xác là một yếu tố quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt trong ngôn từ => Gợi ra được cái “thần” của sự vật, hiện tượng, chỉ ra đúng bản chất của đối tượng được miêu tả trong tác phẩm. -Ngôn từ trong văn học đòi hỏi tính chính xác cao độ, vì vậy cũng đòi hỏi cả người viết lần độc giả phải có sự nhạy cảm và tinh tế. *Tính hàm xúc, đa nghĩa -Ý tại ngôn thoại ý ở ngoài lời tạo ra dư vang, nén chặt ý tạo ra sức nặng và nhiều lượng ngữ nghĩa. -Tiếng Việt các biện pháp tu từ và sự chuyển nghĩa => Tính đa nghĩa của văn học *Tính hình tượng -Là đặc trưng quan trọng nhất của văn học -Biểu hiện ở việc làm sống dậy hiện thực trong tâm trí độc giả, tái hiện trạng thái, truyền được động tác hoặc sự vận động của con người, cảnh vật và toàn bộ thế giới mà tác phẩm nói tới. Ngoài ra nó còn biểu hiện ở sự nắm bắt những cái mơ hồ nhất, mong manh vô hình nhất chứ không chỉ dừng lại ở những cái hữu hình. -Hình tượng văn học có thể là con người hoặc là toàn bộ sự vật, hiện tượng đời sống. Ví dụ bông hoa, vầng trăng, Thúy Kiều, thậm chí chỉ là một nét tâm trạng, một khía cạnh nào đó của tình cảm. => Là cách vẽ về toàn bộ cuộc sống, con người, thiên nhiên được nhà văn sang tạo qua liên tưởng, tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và khái quát hiện thực một cách có thẩm mĩ khi ta cảm nhận được hình tượng thì mới cảm nhận được cái hay, cái đẹp và ý nghĩa của văn chương. *Tính phi vật thể của ngôn từ nghệ thuật -Văn học phải cảm nhận bằng tất cả tâm hồn, phải dùng trí tưởng tượng, sự liên tưởng, suy luận cảm xúc với tất cả mọi giác quan và tâm hồn mới có thể hình dung được những sự vật, hiện tượng trong đời sống, điều đó nói lên rằng ngôn từ mang tính chất phi vật thể. -Dù có tính chất phi vật thể nhưng ngôn từ có sức mạnh vạn năng mà không một bộ môn nghệ thuật nào có thể đạt tới được. Nhờ đó văn bản có thể diễn tả được những sự việc theo dòng chảy lịch sử hang ngàn năm, vạn năm trên một không gian hữu hạn hoặc vô hạn. *Tính truyền cảm của ngôn từ nghệ thuật *Tính tổ chức cao của ngôn từ Khái niệm sử dụng phổ biến trong văn học Bên cạnh khái niệm văn học là gì thì những khái niệm được sử dụng thường xuyên trong văn học cũng rất được quan tâm. Cụ thể như sau Đề tài dùng để chỉ hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm. Chủ đề được hiểu là những cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học. Tư tưởng tác phẩm văn học Nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn học. Nhân vật văn học Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng. Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Khái niệm này thường hay bị nhầm với bố cục của tác phẩm. Thuật ngữ bố cục nhằm chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định. Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nôi dung rộng rãi phức tạp hơn. Bố cục là một phương diện của kết cấu. Yếu tố cơ bản thể hiện trong tác phẩm văn học Đối với một tác phẩm văn học, các yếu tố cơ bản sẽ được thể hiện gồm có đề tài, chủ đề, tương tưởng văn học, nhân vật văn học, kết cấu và ngôn từ nghệ thuật. Sự kết hợp của những yếu tố này, sẽ giúp làm nổi bật lên nội dung trong tác phẩm văn học. Đề tài Đề tài mà những nhà văn họ lựa chọn để thể hiện trong tác phẩm của mình chính là các hiện tượng đời sống. Họ sẽ dùng lời văn của mình để miêu tả và phản ánh một cách trực tiếp trong tác phẩm. Đề tài chính là phương tiện khách quan, thể hiện nội dung của tác phẩm. Chủ đề Trong tác phẩm văn học tác giả sẽ xây dựng lên các vấn đề cơ bản, rồi chỉ ra vấn đề trung tâm. Từ các yếu tố này, tác sẽ nêu lên sự nổi bật của chủ đề, đặt ra cách thể hiện tác phẩm với những nội dung cụ thể nhất. Tư tưởng tác phẩm văn học Với một tác phẩm văn học, tư tưởng trong đó thể hiện sự nhận thức, đưa ra các lý giải và thái độ cho toàn bộ nội dung. Từ đó, giúp nội dung được cụ thể hóa và trở nên sống động hơn, các vấn đề nhân sinh cũng tích cực hơn trong cảm nhận của độc giả. Nhân vật văn học Đối với nhân vật thể hiện trong tác phẩm văn học, sẽ được miêu tả một cách cụ thể. Với một nhân vật văn học, họ có thể có tên riêng hoặc là không có tên. Nhân vật văn học đôi khi được dùng với một khái niệm ẩn dụ, nó sẽ chẳng nói đến một ai cụ thể mà thay vào đó là sử dụng nhân vật hiện tượng nổi bất ở trong tác phẩm là nhân vật chính. Ví dụ trong tác phẩm “Đất nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc thì “Nhân dân – chính là nhân vật chính” của bài văn. Kết cấu Đây là toàn bộ các tổ chức có tính phức tạp – sinh động trong tác phẩm văn học. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về kết cấu văn học các bạn nhớ phải phân biệt rõ bố cục với lại kết cấu. Bởi bố cục được dùng để nói đến sự sắp xếp và phân bổ những chương – đoạn, bộ phận của một tác phẩm ở trình tự nhất định. Còn kết cấu thì thể hiện nội dung rộng rãi và phức tạp hơn. Trong kết cấu có sự thể hiện cả tính nghệ thuật, kiến trúc của tác phẩm, còn bố cục chỉ là một phương diện mà kết cấu thể hiện. Ngôn từ nghệ thuật Đó chính là những lời văn, cách diễn đạt tác giả sử dụng để làm nổi bật lên nội dung của bài văn đó. Trong đó, nghệ thuật được tác giả vận dụng khá nhiều từ miêu tả, tự sự,… đến tường thuật. Một tác phẩm muốn đi sâu vào lòng độc giả, ngoài nội dung, chủ đề hay thì ngôn từ nghệ thuật chiếm vai trò khá quan trọng và cần thiết. Thế nào là một tác phẩm văn học hay? Một tác phẩm văn học được đánh giá là hay sẽ dựa vào nội dung và sự phổ biến của tác phẩm đó. Thực chất, việc đánh giá một tác phẩm văn học hay hoặc không sẽ tùy vào cảm nhận riêng của mỗi độc giả. Vậy nên, không thể thấy người khác bảo hay thì đối với bạn nó hay thực sự. Tuy nhiên, người ta sẽ đánh giá tác phẩm văn học có giá trị dựa vào những yếu tố như nội dung, chủ đề, cách sử dụng ngôn từ, cách sử dụng nghệ thuật ngữ pháp, cách xây dựng nhân vật, ý tưởng sáng tạo, lối hành văn… Đó thường sẽ là những điều để đánh giá chất lượng tác phẩm. Thế nào là một tác phẩm văn học hay? Vậy nên, rất khó để đánh giá một tác phẩm là hay nếu bạn không đọc tác phẩm đó, không tự mình cảm nhận. Một tác phẩm văn học hay là tác phẩm có nội dung chạm được vào cảm xúc của con người. Độc giả có thể cảm nhận được thông điệp bên trong tác phẩm đó. Qua bài viết trên các bạn đã có thể hiểu một cách khái quát “tác phẩm văn học là gì?“. Thông qua đó cũng biết thêm những kiến thức liên quan đến thuật ngữ quen thuộc này. Mong rằng đó đều là những kiến thức hữu ích với quý độc giả. Nguồn Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Văn học là gì? Đặc trưng và Yếu tố cơ bản trong tác phẩm văn học. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại Thông báo Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem. Chúng tôi Xin cám ơn! Xem thêm Tả quả mít mà em yêu thích 6 mẫu – Tập làm văn lớp 5 – Hình ảnh cô tiên trong truyện cổ tích Viết bài tập làm văn số 1 văn tự sự Chữa bệnh trĩ ở đâu tốt nhất hà nội Con Mực trong Tiếng Anh là gì Định Nghĩa, Ví Dụ Anh Việt LỊCH SỬ VĂN HỌC LÀ GÌ ? Người ta thường gọi khoa học về văn học là lịch sử văn học. Tên gọi này phù hợp với chính nội dung cơ bản của ngành học được bắt nguồn từ bản chất đối tượng của nó văn học nghệ thuật sáng tạo ngôn từ của các dân tộc trên thế giới. Văn học nghệ thuật của mỗi dân tộc tự phát triển một cách lịch sử, trong đó xuất hiện tất cả những cái mới và những tác phẩm mới mà với mỗi thời đại lịch sử lại có những đặc điểm riêng biệt. Khoa học về văn học đòi hỏi nghiên cứu sự phát triển lịch sử của các nền văn học dân tộc. Dĩ nhiên nó được bắt đầu từ sự thu thập, ghi chép những sự kiện phát triển văn học dân tộc, từ sự tạo dựngbiểu đồ thống kê sự kiện. Sau đó nó phải tiến hành nhiệm vụ phức tạp hơn phân loại lịch sử các hiện tượng văn học nghệ thuật, phát hiện trong đó những đặc điểm, những biến thể có ở lịch sử văn học của dân tộc này hay dân tộc khác. Việc phân chia văn học thành loại, thể trong nghĩa chung và rộng nhất của những từ này đòi hỏi tạo dựng, soạn thảo những khái niệm tổng quát phù hợp. Trong thành phần của khoa học về văn học, khoa học về lịch sử của nó từ lâu đã xuất hiện một bộ môn lý thuyết riêng mà từ thời Arixtốt thường gọi là Thi pháp. Đó không phải là một khoa học riêng biệt mà là một bộ phận của khoa học, tất yếu cần phải là thành phần giúp cho việc phân chia cơ bản khoa học về văn học lịch sử văn học của các dân tộc khác nhau và các thời đại khác nhau của sự phát triển của chúng và cần phải được tạo dựng vì lợi ích của nó. Trong khi tạo nên những khái niệm bao quát của mình thi pháp không thể không tính đến ở trong đó những biến đổi lịch sử diễn ra trong văn học và chính nó hiện ra như thi pháp lịch sử. Nhưng, giống như các khoa học khác, khoa học về văn học không thể tự hạn chế ở việc hoàn thành những nhiệm vụ phân loại và thống kê sự kiện. Nếu như những định kiến tư tưởng của chính các nhà khoa học cản trở điều đó thì nó vẫn không thể không hướng tới giải quyết những nhiệm vụ quan trọng và phức tạp hơn nhiều làm sáng tỏtính quy luậtphát triển lịch sử của văn học các dân tộc khác nhau trên thế giới và thông qua đó mà giải thích sự phát triển ấy. Giải thích những nhiệm vụ đó đòi hỏi những sự khái quát lý luận rộng lớn hơn nhiều. Văn học nghệ thuật tự phát triển một cách lịch sử, tất nhiên không phải vì nó, không phải từ nó, không mang tính nội tại. Là ý thức xã hội không trực tiếp, đặc thù của các dân tộc khác nhau, là lĩnh vực đặc thù văn học tinh thần của các dân tộc, văn học nghệ thuật biến đổi đồng thời với những đổi thay của đời sống dân tộc và gắn bó với chúng. Để hiểu những quan hệ ấy cần có lý luận phù hợp mang ý nghĩa phương pháp luận. Trước hết, việc giải quyết vấn đề về bản chất văn học nghệ thuật như là một loại hình nghệ thuật, về những đặc điểm riêng biệt của nó luôn luôn là cơ sở phương pháp luận của khoa học văn học. Phương pháp luận cần chỉ rõ mối quan hệ của phát triển văn học với phát triển lịch sử của xã hội dân tộc này hay dân tộc khác không phải là một sự ngẫu nhiên, bên ngoài, mà bắt nguồn từ chính bản thân văn học nghệ thuật. Giải quyết những vấn đề thi tháp và phương pháp luận văn học đòi hỏi những công trình tư duy lý thuyết, thường rất trừu tượng. Cái mức độ trừu tượng ấy mới nhìn qua thật to lớn. Nó hướng tới việc xây dựng một hệ thống khái niệm tổng quát rất thiết yếu đối với việc tạo dựng lịch sử các nền văn học dân tộc những thời đại khác nhau mà thiếu nó thì bản thân lịch sử ấy không thể cấu tạo ở một trình độ khoa học cao nào đó. Thời gian gần đây thỉnh thoảng có thể nghe trong giới nghiên cứu, phê bình ý kiến cho rằng hình như việc nghiên cứu một hệ thống trừu tượng những khái niệm nghiên cứu văn học là không cần thiết, kinh viện, siêu hình. Ý kiến ấy có thể là kết quả của sự thay đổi nhanh chóng và sự phê phán gay gắt những lý thuyết phương pháp luận khác nhau trong ngành nghiên cứu văn học Xô Viết những năm 1920 1940. Nó làm cho người ta sợ hãi tranh luận những lý thuyết này khác. Nhưng sự xung đột những ý kiến đó là điều kiện tất yếu thúc đẩy khoa học tiến lên và không có sự nguy hiểm nào ở đó. Là bộ phận cấu thành chung của những sự phân chia có tính lịch sử, được trang bị bởi những khái niệm nghiên cứu thi pháp và phương pháp luận, khoa học về văn học là một hệ thống nhận thức khoa học phức tạp và phân ngành. Để biểu thị hệ thống này trong sự thống nhất tất cả những sự phân chia có tính lịch sử và những nguyên lý lý luận của nó, khoảng mươi năm lại đây ở chúng ta đã xuất hiện từ nghiên cứu văn học vay mượn từ tiếng Đức Literaturwissenschaft, tức là khoa học về văn học. Nhưng chớ bao giờ nên quên rằng nghiên cứu văn học đó là khoa họcxã hội lịch sử,trong tất cả các bộ phận của mình nó cần phải xuyên thấm nguyên tắc chủ nghĩa lịch sử. Đang tồn tại và có thể tồn tại chỉ một khoa học về văn học việc nghiên cứu văn học mang tính lịch sử từ lý luận của chính nó; nó có thể mang lại sự cống hiến to lớn vào văn hóa tinh thần tiến bộ toàn nhân loại. 2 Ý nghĩa của những vấn đề lịch sử chung của khoa học về văn học nhiều khi trượt khỏi sự chú ý của chính các nhà nghiên cứu văn học chuyên giải quyết những nhiệm vụ bổ trợ và riêng biệt. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực tập hợp và miêu tả các sự kiện liên quan với lịch sử văn học nghệ thuật các dân tộc khác nhau góp phần to lớn nhất vào vấn đề đó. Việc làm sáng tỏ các vấn đề chẳng hạn như việc các tác phẩm văn học nghệ thuật đã được sáng tác tại những thời điểm nào trong hoạt động sáng tạo của các tác giả của chúng vốn thường có những dị bản và hiệu đính khác nhau, hay việc các tác phẩm sau đó đã được in và sao chép rất nhiều đôi lúc thiếu cả tên tác giả, đã bị xuyên tạc từ phía những người chép lại và bởi sự hiệu đính xuất bản, bởi sự kiểm duyệt mà thường là thay đổi văn bản của chúng, hoặc như việc các tác phẩm đã được công chúng các dân tộc xa xôi tiếp nhận, đã trở thành đối tượng của những buổi công diễn, đã được đánh giá, phê bình, nhận xét của người nghe, người xem mà không hiếm trường hợp những nhận xét phê bình ấy của độc giả các nước khác đã dịch ra tiếng nước ngoài là việc minh định và chỉ ra chính xác tất cả những điều đó tự nó đã lý giải hết thảy các quá trình riêng biệt ấy. Đó là một công việc rất phức tạp, tỉ mỉ, tốn nhiều công sức. Nó đòi hỏi giải quyết rất nhiều vấn đề thuộc về sưu tầm, tiểu sử học, văn bản học, bình chú Công việc này hoàn toàn cần thiết. Kết quả của nó dần dần tạo ra cơ sở dữ liệu của khoa học về văn học như đã nói, mà thiếu nó thì không có nền tảng vững chắc và có thể dẫn đến sự khái quát phiến diện hoặc thậm chí sai lầm. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã để hết tâm trí vào việc thực hiện những nhiệm vụ lập biểu đồ dữ liệu, cống hiến toàn bộ sức lực và sự quan tâm của mình xem đó như là tiết diện của mình. Trong phạm vi này thường tạo nên những nhà khoa học lớn và nghiêm túc đem lại trong lĩnh vực của mình sự uyên bác sâu rộng làm phong phú khoa học văn học bằng những khám phá thực sự rất quan trọng. Tuy nhiên, với tất cả sự thiết yếu và tầm quan trọng to lớn của mình, toàn bộ điều đó chỉ làbậc đầu tiêncủa việc nghiên cứu văn học nghệ thuật. Nhưng khoa học văn học từ lâu đã không thể tự thỏa mãn với điều ấy. Và khi những nhà nghiên cứu văn học nào đó tự bằng lòng điều ấy, toàn tâm toàn ý chỉ đi vào tìm kiếm dữ liệu thì việc đấy lại hạn chế chân trời khoa học và chứa đựng nguy hiểm lớn đối với tư duy khoa học của họ. Điều nguy hiểm đó là ở chỗ một số nhà nghiên cứu chỉ trên bình diện biểu đồ sự kiện dữ liệu thường phát triển và củng cố một quan niệm thích hợp với đối tượng khoa học của mình. Có thể gọi tên nó là quan niệm cá thể hóa đối với sáng tác và cá tính sáng tạo của các nhà văn. Điều đó tự nó hoàn toàn chính đáng nhưng không đầy đủ. Nó cần hàm chứa trong mình khả năng của một quan niệm khác có tính chủ yếu, bao quát trở thành nhiệm vụ của mình hướng cái riêng đến cáccái chung. Vấn đề là ở chỗ các nhà khoa học của lát cắt biểu đồ sự kiện thường xuyên có quan hệ với những hiện tượng cá biệt của sáng tạo nghệ thuật và với những sự kiện của các nhà văn riêng lẻ. Vì vậy ở họ thường xuất hiện một cách tự phát quan niệm cho rằng tất cả đặc thù của các tác phẩm của nhà văn này hay nhà văn khác được tạo nên bởi bản tính riêng của tư duy nghệ thuật và tài năng anh ta, mà bản tính ấy đã xuất hiện và phát triển trong những điều kiện và hoàn cảnh riêng biệt của đời sống và sáng tác của nhà văn. Và thậm chí khi bị cuốn hút bởi các sự kiện của những mối quan hệ xã hội, văn học riêng tư của các nhà văn đối với tư duy sáng tạo của họ thì các nhà nghiên cứu ấy thường xem xét chúng phần lớn chỉ theo bình diện cá biệt. Theo quan niệm của họ thì nhà văn lớn, tài năng có thể trải qua những ảnh hưởng nhất thời về văn học và tư tưởng khác trong khi vẫn giữ nguyên tất cả tính sáng tạo duy nhất, rõ ràng không hề mang những đặc điểm chung nào xuất hiện một cách lịch sử của tư duy nghệ thuật và xã hội. Với quan điểm cá tính hóa đối với sự sáng tác của nhà văn thì các tác phẩm riêng biệt của họ cũng thường được xem xét giống như vậy. Các hành động và quan hệ của các nhân vật trong các tác phẩm kịch và tự sự được hiểu như sự tùy thuộc vào ý chí, chủ định, xúc cảm cá nhân các nhà văn tương tự như điều đó thường xảy ra trong thực tế với những con người có thực. Mỗi một nhân vật hành động ứng xử thế này hay thế khác phù hợp với những đặc điểm của tính cách cá nhân và vì vậy hoàn toàn đáp ứng với chính bản thân. Có thể khen ngợi hoặc phê phán nó về điều đó như một người đang sống và có thể cho nó một tính cách phù hợp vì điều đó. Bằng việc mô tả tính cách các nhân vật và thuật lại các cốt truyện các nhà văn tự tạo ra ít hoặc nhiều mặt cắt biểu đồ sự kiện, không tính đến những tình huống mà trong các hành động và quan hệ của các nhân vật tác phẩm tự biểu hiện không chỉ những bản tính riêng của chúng mà còn cả những tính cách xã hội và sự hiểu biết tư tưởng cảm xúc mới nhất từ phía tác giả. Ngay cả những nguyên tắc mô tả nghệ thuật vốn có ở những tác phẩm của từng nhà văn riêng lẻ có thể được nhìn nhận theo một quan niệm cho rằng toàn bộ những gì phụ thuộc vào các đặc điểm của tài năng sáng tạo của nhà văn giống như phong cách riêng của anh ta. Cách hiểu như vậy loại trừ phong cách văn học khỏi bất kỳ tính quy luật lịch sử nào. Những sự khác nhau và đổi thay các phong cách trong văn học của các thời đại được giải thích theo cách hiểu đó chỉ là sự biểu hiện và thay đổi của những cá tính sáng tạo duy nhất khác nhau. Và thế là văn học không có bất kỳ quy luật mang tính lịch sử phong cách nào! Ở bình diện này có thể trình bày toàn bộ lịch sử văn học của dân tộc này hay dân tộc khác. Do đó có thể xuất hiện những tác phẩm thậm chí nhiều tập chứa đựng trong đó những bản tổng quan biểu đồ sự kiện đời sống xã hội văn học các thời đại khác nhau và tiếp theo sau là những đặc điểm biểu đồ sự kiện các tiểu sử, các thời kỳ sáng tác, các nhân vật, cốt truyện của những tác phẩm quan trọng nhất và sau đó là kiểu cách văn chương riêng của các nhà văn sống cùng thời đại. Những cuốn sách như vậy thường chứa đựng không ít nhữngtư liệurất có ích nhưngý nghĩa khái quátvề quá trình văn học và các giai đoạn khác nhau của nó có thể bị hoàn toàn tước bỏ. 3 Nghiên cứu văn học tiến lên trình độ cao hơn khi nó tạo đượcmột hệ thống những khái niệm khoa họcmà với sự giúp đỡ của chúng có thể thấy được trong những bản sắc riêng các tác phẩm của các nhà văn đơn lẻ một số đặc điểm chung xuất hiện có tính lịch sử và có thể lặp lại trong sáng tác của các nhà văn khác. Với các khái niệm ấy, nghiên cứu văn học có thể tìm các quy luật phát triển lịch sử của các nền văn học dân tộc khác nhau. Những đặc điểm chung của các tác phẩm văn học mà từ đó ánh xạ sang những khái niệm của chúng có thể chia làm hai loại. Mỗi loại là những bản chất chung có thể được hiện ra theo cách khác nhau trong các tác phẩm có liên quan với các thời đại khác nhau của phát triển lịch sử của văn học dân tộc này hay dân tộc khác và với những trào lưu, khuynh hướng khác nhau. Những đặc tính chung đó của các tác phẩm văn học nghệ thuật và những khái niệm phản ánh chúng thường được gọi là những đặc trưng mang tínhloại hìnhva những khái niệm tương ứng. Nhưng lại có những đặc tính khác trong khi xuất hiện ở các tác phẩm liên quan tới một thời kỳ lịch sử nhất định hoặc chỉ với một trào lưu văn học nào đó không lặp lại có tính lịch sử ra khỏi giới hạn của thời đại ấy của sự phát triển văn học dân tộc và của trào lưu văn học ấy. Những đặc tính chung đó và những khái niệm phản ánh chúng có thể gọi là những đặc tínhlịch sử cụ thểvà những khái niệm tương ứng. Có thể xem các trào lưu văn học thường được gọi như chủ nghĩa cổ điển Nga hay chủ nghĩa lãng mạn Pháp là những hiện tượng lịch sử cụ thể cơ bản. Trong các tác phẩm của những nhà văn thuộc vào một trào lưu văn học nhất định, xuất hiện ở một thời đại lịch sử nhất định trong một nền văn học dân tộc nào đó rõ ràng là có những đặc điểm chung khác biệt với những tác phẩm của các nhà văn thuộc những trào lưu khác và thời đại khác. Và những đặc điểm lịch sử không lặp lại ấy của nội dung các tác phẩm của một trào lưu nhất định tạo ra tính cụ thể lịch sử của tất cả các đặc tính và yếu tố của các tác phẩm ấy mà trong những tính chất chung của mình đã có thể tồn tại sớm hơn trong những tác phẩm của các tác phẩm khác với một nội dung khác và có thể sẽ được lặp lại trong những thời đại sau. Nói cách khác, những đặc điểm lịch sử cụ thể của văn học quy định sự xuất hiện và các sự thay đổi có tính lịch sử những đặc tính loại hình của nó. Thoạt nhìn thì những đặc trưng loại hình học của các tác phẩm chỉ là các đặc điểm củahình thứcnghệ thuật của chúng. Những đặc điểm duy nhất có tính lịch sử của nội dung khi được biểu đạt trong các phương tiện và thủ pháp phản ánh đời sống phù hợp với chúng, mỗi một lần đều bổ sung cho chúng tính cụ thể lịch sử của mình, mặc dù chính những phương tiện và thủ pháp ấy trong đặc tính chung của mình có thể lặp lại một cách lịch sử trong những tác phẩm của các trào lưu và thời đại khác trong khi biểu đạt những đặc điểm khác của nội dung nghệ thuật. Điều đó liên quan trước hếtcốt truyệnnhững tác phẩm kịch và tự sự. Cốt truyện của từng tác phẩm riêng lẻ đó là quá trình miêu tả trong tác phẩm những sự kiện, mỗi một lần nhiều hay ít mới mẻ, cụ thể, riêng biệt hiện ra nhờ những quan hệ và hành động của tất cả nhân vật hành động, được nhà văn dùng làm phương tiện khám phá những đặc điểm của các tính cách xã hội của chúng và đồng thời là phương tiện bộc lộ suy nghĩ tư tưởng cảm xúc của những đặc điểm ấy của nhà văn. Vì vậy cốt truyện là phương tiện quan trọng nhất của hình thức tác phẩm. Nhưng những quan hệ riêng biệt của các nhân vật hành động thường chứa ở trong mình một số đặc điểm chung có thể lặp lại trong những điều kiện lịch sử xã hội khác. Nhiều cốt truyện của các tác phẩm được xây dựng chẳng hạn, trên cái gọi là tam giác tình yêu của các nhân vật nhưng mà khi lặp lại thì lại nhằm biểu đạt một nội dung tư tưởng khác ở các nhà văn của các thời đại và trào lưu khác nhau. Có thể nói chẳng có gì giống nhau về tất cả các phương tiện và thành phần khác của hình thức, ví dụ như vềcấu trúc các hình tượngtrong những tác phẩm tự sự. Những hình tượng nhân vật luôn được xây dựng trong các tác phẩm loại này từ những chi tiết khác nhau của tính tạo hình đồ vật. Nói cách khác chúng luôn luôn hàm chứa trong mình sự lựa chọn và tương quan nhất định của những chi tiết hành động, lời nói, xúc cảm, ngoại hình của các nhân vật trong quan hệ với những chi tiết của hoàn cảnh xung quanh chúng. Ở những nhà văn của các thời đại và trào lưu khác nhau mối quan hệ ấy thường khác nhau và mỗi lần đều không tái hiện một cách lịch sử bởi vì nó được dùng làm phương tiện biểu hiện của nội dung tư tưởng khác biệt theo đặc thù của mình. Nhưng tự nó trong những đặc tính chung của mình, các chân dung nhân vật, những đối thoại của chúng, sự mô tả những cảm xúc của chúng được lặp lại một cách lịch sử theo cái kiểu là một đặc điểm loại hình của hình thức nghệ thuật. Những đặc tính loại hình của các phương diện và nhân tố khác nhau củangôn từnghệ thuật được thấy rõ dễ hơn. Có thể tìm thấy trong các tác phẩm của phần lớn các tác giả những thời đại và trào lưu văn học khác nhau một số dạng giống nhau của lời lẽ bóng gió, những dạng thủ pháp ngữ điệu cú pháp tương tự nhau và sự vận dụng những tiết tất nhịp điệu hay những kiểu đoạn thơ giống nhau. Nhưng mỗi lần biểu đạt nội dung tư tưởng cảm xúc riêng biệt thì tất cả những đặc tính lặp lại một cách lịch sử ấy của hình thức ngôn từ các tác phẩm tiếp nhận được cái ý nghĩa và âm vang mới không lặp lại có tính lịch sử. Nghiên cứu những khái niệm loại hình học, phản ánh những phương diện và yếu tố khác nhau của hình thức tác phẩm văn học nghệ thuật là nhiệm vụ một bộ phận của thi pháp như một bộ môn lý thuyết nằm trong thành phần chung của nghiên cứu văn học. Có thể gọi nó là thi pháp hình thức. Nhưng không nên nghĩ rằng chỉ có những đặc tính hình thức nghệ thuật của chúng mới là các đặc trưng mang tính loại hình của tác phẩm văn học. Cả những phương diện khác nhau củanội dungnghệ thuật của chúng cũng có thể tự tái diễn một cách lịch sử. Như vậy, trước hết là những đặc điểm nội dung làm phân biệt các tác phẩm của các loại văn học cơ bản tự sự, trữ tình, kịch. Tất nhiên đang tồn tại những khác nhau to lớn trong các nguyên tắc và thủ pháp tái hiện đời sống trong từng loại của chúng. Tự sự luôn là sự trần thuật chủ yếu về những sự kiện diễn ra trong đời sống của những nhân vật hành động. Còn trữ tình thì phần lớn trường hợp là suy ngẫm xúc cảm về đời sống hay là sự mô tả cảm xúc. Tự sự luôn luôn mang cốt truyện còn trữ tình thường thiếu cốt truyện. Để thể hiện nội dung trong tự sự thì các chi tiết tạo hình cụ thể như các tình tiết hành động, nói năng, chân dung, xúc cảm của nhà văn có ý nghĩa quyết định, cơ bản. Những chi tiết ấy trở thành chất liệu cấu tạo hình tượng tác phẩm và nhà văn trần thuật về chúng. Trong trữ tình thì tính tạo hình cụ thể thường phát triển yếu hơn và những đặc điểm của ngôn ngữ miêu tả và trầm tư lại có ý nghĩa quyết định việc biểu đạt nội dung. Chính vì thế mà ngôn ngữ nghệ thuật trong trữ tình thường là phương tiện truyền cảm tinh tế hơn nhiều so với tự sự. Trữ tình hầu như luôn luôn hướng tới tổ chức thi ca của ngôn ngữ, hoàn toàn thường thỏa mãn trong quy mô nhỏ của văn bản tác phẩm. Còn tự sự với tính cốt truyện và tính tạo hình cụ thể mở rộng, hiển nhiên là tìm đến những chiều kích lớn của trần thuật được thực hiện một cách hiệu quả như nhau trong thơ ca và văn xuôi. Ở kịch có những đặc điểm chung cơ bản với tự sự. Đó là sự có mặt của các nhân vật hành động, sự phát triển hành động trong những điều kiện địa điểm và thời gian nhất định, là các khả năng như nhau của chất văn xuôi và chất thơ. Nhưng những tác phẩm kịch được dùng chủ yếu để dựng vở trên sân khấu, nhằm thống nhất nghệ thuật ngôn từ với nghệ thuật biểu diễn, có những nguyên tắc tái hiện cuộc sống của mình. Trong kịch không có sự mô tả và trần thuật của tác giả và chỉ hoàn toàn xây dựng bằng đối thoại và độc thoại của các nhân vật. Bị hạn chế thời gian của diễn xuất sân khấu, các đối thoại và độc thoại cần phải phù hợp với thời gian trong khối lượng lời của mình. Tất cả đấy là đặc điểm loại hình củahình thứccác chủng loại văn học. Nhưng chúng được tạo dựng trong các tác phẩm của các nhà văn những thời đại và trào lưu văn học khác nhau bởi những đặc điểm loại hình mang tính nội dung. Tự sự và kịch là một phía và trữ tình ở phía khác, khác biệt nhau trước hết ở trong một phương diện xác định nào đó của nội dung. Phương diện đó tất nhiên không thể là hệ đề tài của các tác phẩm nghệ thuật, tức là những tính cách và quan hệ xã hội lịch sử cụ thể đã trở thành đối tượng nhận thức nghệ thuật. Một số tính cách này hay tính cách khác có thể được tái hiện mang tính tự sự, tính kịch hay tính trữ tình. Còn ở mức độ nhỏ hơn của phương diện nội dung nằm trong cơ sở của những chủng loại văn học khác nhau có thể là toàn bộ những vấn đề của tác phẩm tức là những phương diện các tính cách và quan hệ xã hội được miêu tả mà các nhà văn của các thời đại và trào lưu khác nhau xem chúng là cốt yếu hơn cả và họ lựa chọn, khuếch đại, phát triển chúng trong tác phẩm của mình. Những khía cạnh khác nhau của các tính cách xã hội được miêu tả cũng giống thế là phương diện các tính cách xã hội có thể trở thành vấn đề cơ bản trong cả ba chủng loại văn học. Chúng ta nhớ ví dụ như Những anh hùng thời đại chúng ta, Vũ hội hóa trang và Khúc bi ca của Lécmôngtốp. Nếu như tất cả những tính cách xã hội khác nhau một cách lịch sử, và những mối quan hệ của chúng có thể chứa trong mình những mặt giống nhau được lặp lại trong những đặc điểm chung của chúng, ví như có thể phản ánh chủ yếu từ phương diện những quan hệ chính trị hoặc đời sống đạo đức của chúng hay từ phương diện ý nghĩa triết học của chúng ; nếu như nhà văn các thời đại và trào lưu khác nhau có thể thống nhất với nhau trong những đặc điểm chung lặp lại một cách lịch sử ấy của toàn bộ các vấn đề của mình thì tất cả điều đó sẽ không có một quan hệ nào hết đến vấn đề về các đặc điểm nội dung của chủng loại văn học. Phương diện thứ ba của nội dung các tác phẩm văn học là mối quan hệ tư tưởng cảm xúc của các nhà văn với những tính cách xã hội mà họ nhận thức. Mối quan hệ ấy thường rất có ý nghĩa và hiệu lực trở thành cảm hứng của tác phẩm trong ý nghĩa ấy, đồng thời không có quan hệ trực tiếp với vấn đề đó. Sự hưng phấn cảm xúc của tác phẩm tự có những sự khác biệt mà trong những đặc tính chung của mình chúng tự tái hiện một cách lịch sử trong sáng tác của các nhà văn ở các thời đại và trào lưu khác nhau. Nó có thể trở thành cảm hứng anh hùng và lãng mạn, trào phúng và châm biếm Nhưng trong tất cả những biến tướng được lặp lại của mình nó có thể trong chừng mực giống nhau trở thành biểu hiện trong các tác phẩm tự sự, kịch, trữ tình Hêghen trong Mỹ học của mình và sau đó Bêlinxki trong bài báo Phân chia thể loại thơ ca đã xác định sự khác nhau giữa tự sự, trữ tình và kịch từ cái nhìn vị thế chủ đạo của nguyên tắccái khách quanhaycái chủ quantrong đó. Nhưng Hêghen đã xây dựng toàn bộ lý luận các loại văn học của mình trên tư liệu văn học Hy Lạp cổ đại, trên những sự kiện thời hưng thịnh lần lượt của sáng tác tự sự, trữ tình, kịch của người Hy Lạp cổ đại. Và đối với ông thì chỉ có một trong những thể loại anh hùng ca sử thi nhân dân như anh hùng ca Hôme mới là kiểu mẫu và thước đo toàn bộ chủng loại tự sự sử thi. Vì vậy trongảo ảnhtính khách quan của trần thuật được xem là bản chất có thật của Iliat và Ôđixê, Hêghen đã nhìn thấy tính khách quan hiện thực của tác phẩm tự sự nói chung và đã theo đó mà phân biệt toàn bộ chủng loại tự sự văn học với chủng loại trữ tình như là cái chủ quan và xem kịch như là sự tổng hợp của chúng. Thật ra thì cả ba chủng loại văn học đều chứa đựng trong mình sự thống nhất nhận thức của tác giả về khách thể tức là sự phản ánh những bản chất đặc trưng vật chất hay tinh thần của hiện thực và về chủ thể tức là sự hiểu biết và đánh giá mang tính tư tưởng từ phía tác giả. Trong các tác phẩm của cả ba loại văn học luôn có thể tìm thấy cả ba phương diện cụ thể nội dung của chúng. Và có nghĩa là vấn đề về những khác biệt có nội dung sâu sắc của ba loại văn học không thể giải quyết bằng con đường mà Hêghen và Bêlinxki đã đưa ra. Cho đến nay vấn đề này vẫn chưa có giải pháp thỏa đáng nhất định mặc dù đã tưởng là ai cũng rõ như thế nào là tự sự, trữ tình, kịch nói chung. Trong nghiên cứu văn học hiện đại vấn đề về cácthể loạivăn học còn khai thác ít hơn nhiều. Và khai thác nó bằng con đường riêng của nghiên cứu, khái quát hình thức tất nhiên là không thể được. Không thể xem các thể loại chỉ là hiện tượng hình thức loại hình. Hình thức tác phẩm văn học được tạo nên bởi tất cả những đặc điểm và các phương diện nội dung của nó trong sự thống nhất của chúng và trước hết là bởi những đặc điểm lịch sử cụ thể không lặp lại của hệ đề tài, toàn bộ các vấn đề và cảm hứng của nó. Do đó các tác phẩm của thể loại này hay thể loại khác trong sáng tác của nhà văn của các thời đại và trào lưu văn học khác nhau nhất định sẽ có những đặc điểm khác nhau của các cốt truyện, kết cấu, ngôn từ nghệ thuật. Nhưng đồng thời trong quan hệ này chúng cũng sẽ khác với các tác phẩm của những thể loại khác trong sáng tác của chính các nhà văn đó. Như vậy là các loại thể cũng giống như các loại văn học thường xuyên có những sự khác biệt cơ bản trong hình thức của mình, tuy nhiên vẫn có thể phát hiện những đặc điểm nội dung mang nét chung nào đó được lặp lại một cách lịch sử. Rõ là uổng công ví dụ sự nỗ lực làm điều đó của trong lý thuyết tiểu thuyết của mình đã đưa tất cả đặc điểm thể loại này vào cấu trúc tác phẩm. Trong sáng tác của Stern, đã đặc biệt nghiên cứu theo quan điểm ấy một trong những tiểu thuyết của nhà văn có kết cấu xác định. Nhưng các tiểu thuyết của Risácxơn lại có kết cấu khác, các tiểu thuyết của thì có kết cấu của mình, còn những tiểu thuyết của Đichken đặc biệt trong giai đoạn sau của sáng tác của ông khác biệt dữ dội về mặt kết cấu với tiểu thuyết của các nhà văn xuôi Anh tiền bối. Cũng dễ vạch ra điều đó trong các nền văn học dân tộc khác. Các tiểu thuyết của các nhà văn Nga lớn nhất được sáng tác trong cùng một thời đại của Gôntrarốp, Tuốcghênhép, L. Tônxtôi, Đôxtôiepxki, khác biệt nhau rõ rệt bởi tất cả các đặc điểm hình thức của mình, bởi cốt truyện, các chi tiết tạo hình trực quan, kết cấu các hình tượng và toàn bộ sự trần thuật, ngôn từ nghệ thuật. Tuy nhiên toàn bộ chúng là hiện tượng của một thể loại, toàn bộ chúng là các tiểu thuyết. Cái gì là cái chung giữa chúng. Điều đó tất nhiên là cái tính chung nội dung thể loại của chúng. Nhưng vấn đề cái chung ấy cũng chưa được quyết định một cách đầy đủ rõ ràng trong khoa học hiện đại về văn học. Phạm trù thường có tên phương pháp sáng tác là một phạm trù có nội dung phong phú. Những năm 1930 các nhà văn học Xô Viết đã đi tới sự phân hóa rất quan trọng các khái niệm khoa học trong mối quan hệ này. Họ đã nêu ra vấn đề phương pháp sáng tác, xem nó lànguyên tắc phản ánh nghệ thuậtnày khác, ví như chủ nghĩa hiện thực. Họ đã xác định rằng các trào lưu văn học như những hiện tượng lịch sử cụ thể không lặp lại và các phương pháp sáng tác như những thuộc tính loại hình lặp lại một cách lịch sử của các tác phẩm văn học. Đó không phải là cái gì hoàn toàn khác biệt rằng trong các tác phẩm của trào lưu này hay trào lưu khác có thể xuất hiện các phương pháp sáng tác khác nhau, những nguyên tắc phản ánh cuộc sống khác nhau. Đương nhiên rằng nguyên tắc này hay nguyên tắc khác phản ánh nghệ thuật cuộc sống thì đó cũng là một phương diện của nội dung các tác phẩm văn học. Những phương diện ấy có thể tồn tại trong sáng tác của nhà văn những thời đại và trào lưu khác nhau, được lặp lại một cách lịch sử, trong khi vẫn có những đặc điểm không lặp lại ở những đặc điểm cụ thể của nội dung sáng tác của họ. Hiển nhiên của Phônvidin và Rađisép, cả Gôgôn và Nhêcraxốp, cả và Sêkhốp là những nhà hiện thực chủ nghĩa trong phương diện phê phán của nội dung của tác phẩm của mình,mặc dù họ sáng tác trong những thời đại khác nhau và thuộc về những trào lưu khác nhau. Nhưng về sau nhiều nhà nghiên cứu văn học Xô Viết đã làm mất đi tính chính xác và đơn giản của khái niệm đó. Họ dần dần đã biến phương pháp sáng tác từ khái niệm loại hình học thành khái niệm cụ thể lịch sử. Họ đã gọi những đặc điểm hệ đề tài, toàn bộ vấn đề và cảm hứng sáng tác của các nhà văn của một thời đại nhất định và một trào lưu nhất định là phương pháp sáng tác và đôi khi cùng với cả những đặc điểm cụ thể của hình thức các tác phẩm của chúng. Hơn nữa họ đã không xây dựng một thuật ngữ mới nào có thể làm rõ thêm phương diện loại hình học của nội dung, các phương diện mà trước kia trong những năm 30 họ đã gọi là phương pháp sáng tác. Và điều đó thường đưa đến lẫn lộn khái niệm. Mỗi biểu hiện của sự không hoàn thiện và thiếu bền vững của khái niệm mới là trong khi gọi một trong những nguyên tắc của phản ánh nghệ thuật cuộc sống, các nhà nghiên cứu văn học của chúng ta cho đến bây giờ đã 35 năm trôi qua kể từ khi bắt đầu nói về phương pháp sáng tác đã không thỏa thuận gọi một cách khác hoặc những nguyên tắc của sự phản ánh nghệ thuật cuộc sống là phi hiện thực chủ nghĩa. Thoạt đầu tiên nguyên tắc phản ánh khác với chủ nghĩa hiện thực đã được người ta gọi là chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng dưới cái tên chủ nghĩa lãng mạn đã từ lâu thường hiểu là một trào lưu văn học nhất định hay chính xác hơn là những trào lưu xuất hiện trong các nền văn học châu Âu cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và giữa chúng có nhiều cái chung. Đối với mỗi nền văn học dân tộc, chủ nghĩa lãng mạn đã là một hiện tượng cụ thể lịch sử và không lặp lại. Mưu toan bổ sung ý nghĩa loại hình học cho dấu hiệu lịch sử cụ thể ấy đồng thời đã làm rối rắm thêm các khái niệm nghiên cứu văn học. Hơn nữa thuật ngữ chủ nghĩa lãng mạn đến lúc dần dần đã có thêm ý nghĩa loại hình học khác. Cảm hứng lãng mạn của sáng tác như đặc tính được lặp lại một cách lịch sử của nội dung các tác phẩm văn học đã được họ làm rõ. Tất cả điều đó đã gây ra rất khó khăn việc sử dụng chính xác thuật ngữ chủ nghĩa lãng mạn. Đồng thời điều đó làm mất đi sự sáng rõ và sự hiểu biết thực chất nguyên tắc phản ánh đời sống đối lập với chủ nghĩa hiện thực là gì, là cái gì từ phía nội dung tác phẩm. Nhưng cả những khái niệm có tính chất loại hình khác phản ánh những đặc tính và các biến thể khác nhau của cảm hứng tư tưởng cảm xúc của các tác phẩm văn học cũng không đem lại sự sáng tỏ đầy đủ trong khoa học hiện đại về văn học. Ví dụ sự khác nhau giữa cảm hứng anh hùng và lãng mạn, giữa tính chất anh hùng và tính chất bi kịch, giữa tính cao thượng và tính hài kịch, giữa cảm hứng hài hước và châm biếm là chỗ nào? Nhưng chính tất cả những điều đó cũng mang những đặc tính lặp lại một cách lịch sử các nội dung văn học nghệ thuật, mà những đặc tính ấy cũng nhận được tính cụ thể lịch sử của mình trong các tác phẩm các nhà văn những thời đại và trào lưu khác nhau. Như vậy là bên cạnh hệ thống những khái niệm có tính chất loại hình phản ánh những đặc tính lặp lại một cách lịch sử của hình thức nghệ thuật, trong nghiên cứu văn học cần phải xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh những khái niệm phản ánh những đặc tính được lặp lại một cách lịch sử củanội dungcó tính nghệ thuật. Cần có một bộ phận khác của thi pháp chuyên nghiên cứu chúng, đó là thi pháp nội dung. Với sự hỗ trợ của một loại khái niệm nhằm khám phá sự phát triển mang tính lịch sử của văn học trong những nguyên tắc có nội dung phong phú của nó, các nhà nghiên cứu văn học có thể tiến hành một cách hiệu quả việc nghiên cứu từ trình độ biểu đồ sự kiện sáng tác của các nhà văn riêng lẻ một việc rất quan trọng đến việc nghiên cứu khoa học sâu sắc quá trình văn học trong tính quy luật lịch sử xã hội của nó. Trong khi gác lại phương diện loại hình của hình thức nghệ thuật, cuốn sách này giới thiệu sự xem xét tỉ mỉ những vấn đề liên quan với các phương diện loại hình của nội dung các tác phẩm văn học nghệ thuật. Nhưng những vấn đề được đặt ra trong cuốn sách hiển nhiên cần phải dựa vào sự hiểu biết tổng quát về nghệ thuật nói chung và về văn học nghệ thuật nói riêng. Tác giả đã trình bày những quan điểm của mình trong cuốn Cái thẩm mĩ và cái nghệ thuật Nhà xuất bản MGU, 1965. Đôi khi văn học không trực tiếp miêu tả con người nhưng con người vẫn là trung tâm mà văn học hướng tới. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con người mà còn nói lên những mơ ước, khát vọng, những tâm tư tình cảm của con người, trong chiều sâu tâm hồn với tất cả sự đa dạng và phong phú của nó. Văn học là bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, lấy hình tượng làm phương thức biểu đạt nội dung, lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng.​ Lí luận, văn học là gì? Văn học là gì? Đặc trưng của Văn học I. Văn học là một môn nghệ thuật 1. Khái niệm - Văn học là bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, lấy hình tượng làm phương thức biểu đạt nội dung, lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng. - Quy luật Cái đẹp nhằm thỏa mãn nhu cầu về tình cảm vô cùng phong phú của con người. - Đôi khi văn học không trực tiếp miêu tả con người nhưng con người vẫn là trung tâm mà văn học hướng tới. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con người mà còn nói lên những mơ ước, khát vọng, những tâm tư tình cảm của con người, trong chiều sâu tâm hồn với tất cả sự đa dạng và phong phú của nó. 2. Đặc trưng của văn học a. Đặc trưng về đối tượng phản ánh của văn học Những quan niệm khác nhau về đối tượng phản ánh của văn học -Những nhà mỹ học duy tâm khách quan +Văn học hướng nhận thức về thế giới vĩnh hằng của Thượng đế, của cái ý niệm có trước loài người. Sự chiêm nghiệm, sự hồi tưởng và miêu tả cái đẹp của ý niệm tuyệt đối là đối tượng của văn học. +Đối tượng của văn học không nằm ở thế giới hiện thực mà chỉ có trong ý niệm,nó hiện hình qua linh ứng của người nghệ sĩ. -Những nhà mỹ học duy tâm chủ quan đối tượng của văn học nằm ngay trong những cảm giác chủ quan của người nghệ sĩ và nó là cái tôi bề sâu không liên quan gì đến đời sống hiện thực. -Những nhà duy vật chủ nghĩa +Đối tượng phản ánh của văn học nằm ở trong hiện thực khách quan và đối tượng đó phải mang tính thẩm mĩ => Quan niệm đúng đắn, tiến bộ, đầy đủ. Những đặc trưng cơ bản của văn học -Đối tượng của văn học là toàn bộ sự sống của con người, phản ánh +Tư tưởng, tình cảm, đạo đức của con người. +Con người với những giai cấp, bản chất của nó. b. Đặc trưng về nộ dung phản ánh của văn học -Là đối tượng đã được ý thức, tái hiện có chọn lọc và khái quát trong tác phẩm và biểu hiện trong tác phẩm như là một tư tưởng về đời sống hiên thực. -Đặc điểm quan trọng của nội dung văn học là khát vọng tha thiết của nhà văn muốn thể hiện một quan niệm về chân lí của đời sống. -Nội dung của văn học là cuộc sống được ý thức về mặt tư tưởng, giá trị. Nó không chỉ gắn liền về một quan niệm với chân lí của đời sống mà còn gắn liền với cảm hứng thẩm mĩ và thiên hướng đánh giá. c. Đặc trưng về phương tiện phản ánh của văn học ngôn từ nghệ thuật Tính chính xác và tinh luyện -Tính chính xác là một yếu tố quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt trong ngôn từ => Gợi ra được cái “thần” của sự vật, hiện tượng, chỉ ra đúng bản chất của đối tượng được miêu tả trong tác phẩm. -Ngôn từ trong văn học đòi hỏi tính chính xác cao độ, vì vậy cũng đòi hỏi cả người viết lần người đọc phải có sự nhạy cảm và tinh tế. Tính hàm xúc, đa nghĩa -Ý tại ngôn thoại ý ở ngoài lời tạo ra dư vang, nén chặt ý tạo ra sức nặng và nhiều lượng ngữ nghĩa. -Tiếng Việt các biện pháp tu từ và sự chuyển nghĩa => Tính đa nghĩa của văn học Tính hình tượng -Là đặc trưng quan trọng nhất của văn học -Biểu hiện ở việc làm sống dậy hiện thực trong tâm trí độc giả, tái hiện trạng thái, truyền được động tác hoặc sự vận động của con người, cảnh vật và toàn bộ thế giới mà tác phẩm nói tới. Ngoài ra nó còn biểu hiện ở sự nắm bắt những cái mơ hồ nhất, mong manh vô hình nhất chứ không chỉ dừng lại ở những cái hữu hình. -Hình tượng văn học có thể là con người hoặc là toàn bộ sự vật, hiện tượng đời sống. Ví dụ bông hoa, vầng trăng, Thúy Kiều, thậm chí chỉ là một nét tâm trạng, một khía cạnh nào đó của tình cảm. => Là cách vẽ về toàn bộ cuộc sống, con người, thiên nhiên được nhà văn sang tạo qua liên tưởng, tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và khái quát hiện thực một cách có thẩm mĩ khi ta cảm nhận được hình tượng thì mới cảm nhận được cái hay, cái đẹp và ý nghĩa của văn chương. Tính phi vật thể của ngôn từ nghệ thuật -Văn học phải cảm nhận bằng tất cả tâm hồn, phải dùng trí tưởng tượng, sự liên tưởng, suy luận cảm xúc với tất cả mọi giác quan và tâm hồn mới có thể hình dung được những sự vật, hiện tượng trong đời sống, điều đó nói lên rằng ngôn từ mang tính chất phi vật thể. -Dù có tính chất phi vật thể nhưng ngôn từ có sức mạnh vạn năng mà không một bộ môn nghệ thuật nào có thể đạt tới được. Nhờ đó văn bản có thể diễn tả được những sự việc theo dòng chảy lịch sử hang ngàn năm, vạn năm trên một không gian hữu hạn hoặc vô hạn. Tính truyền cảm của ngôn từ nghệ thuật Tính tổ chức cao của ngôn từ => Kết luận vũ khí của nhà văn là ngôn từ, văn chương quan trọng nhất là chữ nghĩa, từ ngôn từ nghệ thuật ta nhận ra hiện thực, tài năng, thái độ của nhà văn thể hiện trong tác phẩm. các văn học đương đại hoặc phong trào đương đại bao gồm tất cả các biểu hiện văn học đã xảy ra kể từ thời hậu hiện đại. Nó được xác định bởi một thời kỳ nhưng cũng bởi phong cách rất đặc biệt của nó. Hầu hết các học giả gọi văn học đương đại là tất cả sản xuất văn học sau Thế chiến II, vào những năm 1940. Thời kỳ này kéo dài đến hiện tại. Văn học đương đại được đặc trưng bởi sự phân mảnh, người kể chuyện không đáng tin cậy, pastiche bắt chước phong cách và tác giả, thay đổi lời kể, trình bày và chơi phi tuyến tính và sự không chắc chắn trong ngôn ngữ. Theo cách tương tự, tài liệu này được công nhận bởi nội dung lịch sử hậu hiện đại. Điều này có liên quan đến thời đại của máy tính, robot, điện thoại di động, toàn cầu hóa, trong số những người khác. Bây giờ, một số tác phẩm hoặc một số nhà văn có thể được coi là đương đại nếu nó chia sẻ những phẩm chất phong cách, nghệ thuật hoặc chủ đề của thời hiện tại. Theo khái niệm này, thậm chí một số nhà văn của các thế kỷ khác có vẻ đương đại. Phần lớn văn học đương đại đến từ các tác giả phương Tây, mặc dù thuật ngữ này không dành riêng cho văn học châu Âu hay châu Mỹ. Trên thực tế, toàn cầu hóa đã cho phép chúng ta đánh giá cao các tác phẩm đương đại được viết bởi nhiều nhân vật văn học ở Trung Đông, Châu Phi và Châu Á. Ngoài tiểu thuyết và thơ, phong cách văn học này bao gồm nhiều thể loại khác nhau, chẳng hạn như tiểu thuyết truyền thống và các hình thức khác phù hợp với thực tế mới tiểu thuyết đồ họa hoặc văn học blog.Chỉ số1 Xuất Từ 1940 đến Từ năm 1990 đến nay2 Đặc Quan điểm cá Tài nguyên tường thuật sáng Hiện thực huyền Vấn đề nhắc Ảnh hưởng của Thế chiến Tiểu thuyết và phi hư cấu xếp chồng3 thể Thể loại tiểu thuyết kinh Văn học của nhà văn Tiểu thuyết đồ họa3,4 Văn học cho trẻ Khoa học viễn Tài liệu blog4 Văn học đương đại ở Mexico Đặc điểm Tác giả đại diện5 Văn học đương đại ở Tây Ban Đặc Tác giả đại diện6 Văn học đương đại ở Đặc Tác giả đại diện7 tài liệu tham khảo Nguồn gốcTừ 1940 đến 1990Trong quá trình nửa thế kỷ này, nhân loại đã chứng kiến ​​vô số thay đổi. Sự kết thúc của Thế chiến II, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã đánh dấu sự khởi đầu của một xã hội ra, những đổi mới công nghệ đã xuất hiện, như điện thoại di động và Internet, TV màu và đĩa kỹ thuật số DVD, trong số những thứ khác. Đó cũng là thời đại của âm nhạc mới, như hip hop, và sự chấp nhận các nền văn hóa toàn bộ làn sóng thay đổi này, văn học đã được làm phong phú với các thể loại mới. Nhiều trong số này là một phản ứng với những thay đổi công nghệ và thực tế xã hội mới. Một đặc điểm của văn học đương đại thời gian này là nhiều câu chuyện dựa trên thực tế và có cốt truyện đáng tin cậy. Trong hai thập kỷ đầu tiên, văn học đương đại đã chia sẻ không gian với Chủ nghĩa hiện đại, giữ lại một số tính năng nhất định, chẳng hạn như tập trung vào các nhân vật thay vì cốt sự phát triển sau này cho đến những năm 1990, đương đại đã thay đổi thành mô tả về thực tế cứng. Tương tự như vậy, anh tập trung chú ý vào việc phơi bày các vấn đề tâm lý như loại trừ và cô năm 1990 đến nayGiai đoạn từ những năm 1990 đến năm 2000 được đặc trưng bởi toàn cầu hóa, mối quan tâm ngày càng tăng về sự nóng lên toàn cầu và cuộc chiến chống khủng bố Hồi ra, đó là một thập kỷ được đánh dấu bởi các cuộc chiến tranh, thiên tai và dân số ngày càng tăng. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất cũng xảy ra kể từ Đại suy thoái, suy thoái kinh tế năm 2008 và nhiều người mất việc. Do đó, văn học đương đại đã nhận được tất cả những ảnh hưởng này và được nuôi dưỡng bởi tất cả những bối cảnh mới này. Đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội, các thể loại mới đã xuất hiện. các mạng xã hội, các bưu điện, tiểu thuyết giả tưởng mới và sự trở lại với số liệu và vần điệu trong thơ là những dấu hiệu của thời đại mới. Tính năngQuan điểm cá nhânCác tác phẩm của văn học đương đại phản ánh quan điểm xã hội và chính trị của các tác giả của họ. Chúng được thể hiện thông qua các nhân vật, các kết nối với các sự kiện và thông điệp kinh tế xã hội của các tác phẩm của họ. Tài nguyên tường thuật sáng tạoCó một sự phá vỡ với các kỹ thuật kể chuyện trước đây. Văn học đương đại sử dụng các tài nguyên kể chuyện tiên phong, chẳng hạn như sửa đổi thời gian và trình bày thế giới nội tâm của các nhân thực huyền diệuSự phát triển của chủ nghĩa hiện thực huyền diệu như một kỹ thuật kể chuyện đại diện cho một bước đột phá trong văn học đương đại của thế kỷ XX. Kỹ thuật cách mạng này được đánh dấu bởi một nhân vật chính trị xã hội sâu vấn đề cấp báchHầu hết các chủ đề của văn học đương đại đều liên quan đến các vấn đề áp đảo của thế giới hiện nay, như toàn cầu hóa, chủng tộc và giới tính, bất bình đẳng, khí hậu và môi trường, chiến tranh và khủng bố. Tương tự như vậy, trong danh sách mở rộng này, bạn có thể tìm thấy các chủ đề khác, chẳng hạn như chính trị và kinh tế, đạo đức và đạo đức, văn hóa đại chúng và truyền thông, tội phạm quốc tế và các chủ đề khác..Ảnh hưởng của Thế chiến IICác tác phẩm của văn học đương đại có xu hướng bị ảnh hưởng bởi lối sống thịnh vượng sau Thế chiến II. Phong cách văn học này bắt nguồn từ sự tàn phá mà chiến tranh mang lại cho thế giới. Tiểu thuyết và phi hư cấu xếp chồngTrong văn học đương đại, sự phân biệt giữa tiểu thuyết và phi hư cấu có thể bị xóa nhòa; Điều này được gọi là chéo. Các tác giả tiểu thuyết dựa trên những câu chuyện về các sự kiện trong đời thực và thậm chí có thể bao gồm các tài liệu xác thực. Mặt khác, các nhà văn phi hư cấu làm cho các nhân vật lịch sử trở nên sống động bằng cách kết hợp các cuộc đối thoại và cảnh tưởng loạiThể loại tiểu thuyết kinh điểnThể loại này được tạo thành từ những câu chuyện, tiểu thuyết, vở kịch, thơ và phim. Mọi thứ đều là tưởng tượng và được phát minh, nhưng nó được trình bày như một tấm gương phản ánh cuộc sống và trải nghiệm của con người, theo một cách cụ thể hoặc trừu tượng. Bây giờ, cách đầu tiên để phân biệt tiểu thuyết đương đại là nó sẽ có những sự thật và cảm xúc phổ quát mà mỗi con người có thể trải nghiệm. Theo một cách nào đó, nó mang lại biểu hiện cho cảm tự, tiểu thuyết trong văn học đương đại là hiện thực, có nghĩa là nó có các đặc điểm sau- Nó chứa các nhân vật hành xử theo cách mà hầu hết độc giả sẽ. Các nhân vật phải đáng tin Câu chuyện lấy bối cảnh hiện tại..- Môi trường là một nơi thực sự, hoặc ít nhất nó có vẻ như là một nơi thực Sự kiện là những sự kiện có thể xảy ra trong cuộc sống Đối thoại là không chính thức và đàm thoại, và thường bao gồm các phương ngữ khu học của nhà văn maMột số lượng đáng ngạc nhiên của các cuốn sách thành công được viết bởi các nhà văn ma. Nhưng cũng có tiểu thuyết ma. Theo định nghĩa, các tác giả này không có tên và chỉ có đồng nghiệp và nhà xuất bản của họ, những người phụ thuộc vào họ biết họ..Tiểu thuyết đồ họaTiểu thuyết đồ họa thường được hiểu là phim hoạt hình với một câu chuyện dài dành cho khán giả trưởng thành, được xuất bản bằng bìa cứng hoặc mộc mạc và được bán trong các nhà sách, với các chủ đề văn học nghiêm túc và các tác phẩm nghệ thuật tinh học cho trẻ em20 năm qua đã chứng kiến ​​sự nở rộ của chữ viết cho trẻ em. Trong số các đại diện hàng đầu của tài liệu này là C. S. Lewis Biên niên sử Narnia và Rowling Harry Potter.Khoa học viễn tưởngKhoa học viễn tưởng là một nhánh rất phổ biến trong văn học đương đại. Điều này đan xen với tiến bộ công nghệ của thế nhiên, tác phẩm văn học của khoa học viễn tưởng không nhất thiết ngụ ý một cơ sở khoa học vững chắc. Một nhà văn có thể tạo ra một tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng để thể hiện quan điểm hoặc khái niệm thay văn họcBlog tạp chí trực tuyến của tác giả cá nhân hoặc chung đã trở thành một phương tiện mới để tạo ra các tác phẩm văn học. Thậm chí, có những trường hợp những sáng tạo này đã trở thành sách. Văn học đương đại ở Mexico Tính năng Cho đến giữa những năm 1940, một số phong cách kể chuyện cùng tồn tại ở Mexico. Tường thuật hiện thực được kế thừa từ những năm 1900 vẫn tồn tại, và tiểu thuyết bản địa và những suy tư về văn hóa dân tộc và đang nổi năm 1947, ông bắt đầu văn học Mexico đương đại. Điều này đã bị ảnh hưởng bởi các nhà văn Mỹ và châu Âu. Tạp chí văn học nhóm các nhà văn đương đại và xuất bản các tác phẩm của họ xuất nhóm đã lấy tên của tạp chí tài trợ cho họ và làm cho tài trợ này trở thành một xu hướng văn chủ đề và kỹ thuật trần thuật trở nên trùng khớp với các chủ đề của các nhà văn đương đại khác từ các vĩ độ giả đại diệnJuan Rulfo 1917-1986Ông là một nhà văn, nhà biên kịch và nhiếp ảnh gia sinh ra ở bang Jalisco. Hai tác phẩm hay nhất của ông là Pedro Páramo và El llano en llamas. Cuốn thứ nhất là tiểu thuyết và cuốn thứ hai là tập truyện ngắn. Laura Esqu Xoay 1950-Nó được công nhận trên toàn thế giới với cuốn tiểu thuyết Como agua para chocolate, được ra mắt vào năm 1989. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành doanh thu số một ở Mexico trong ba năm. Đó cũng là chủ đề cho một bộ phim đình đám cùng Paz 1914-1998Ông nổi bật như một nhà văn, nhà thơ và nhà ngoại giao vĩ đại người Mexico. Trong sản xuất rộng rãi của ông, họ nhấn mạnh Mặt trăng hoang dã, Giữa đá và hoa, Mê cung của sự cô độc, Piedra de sol và Libertad en palabra. Hầu hết các tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ trên khắp thế giới. Sau khi ông qua đời năm 1998, Octavio Paz trở thành nhà văn Mexico đầu tiên giành giải thưởng Nobel Hòa học đương đại ở Tây Ban NhaTính năngTừ năm 1975 đến nay, trong văn học Tây Ban Nha đương đại, có một sự xuất hiện của tiểu thuyết so với các thể loại khác. Bối cảnh văn học được bao phủ bởi tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết phiêu lưu, trong số những người tự như vậy, các vấn đề bị cấm trong quá khứ được thảo luận, chẳng hạn như tự do tình dục và các vấn đề liên quan khác. Sản phẩm văn học này được điều chỉnh bởi các thị trường xuất bản và giải thưởng văn cùng một thứ tự ý tưởng, văn học hiện có mối liên hệ chặt chẽ với sản xuất phim. Trong các tác phẩm chuyển thể, các nhà làm phim cố gắng chen vào những di sản của Tây Ban Nha và những đặc thù của xã hội giả đại diệnJavier Marías 1951- Ông được một số nhà phê bình coi là nhà văn Tây Ban Nha đương đại sống tốt nhất. Từ tác phẩm của mình, chúng ta có thể làm nổi bật các tiêu đề sau Corazon tan blanco và khuôn mặt của bạn vào ngày đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng Rómulo Gallegos năm 1994, Giải thưởng văn học quốc tế IMPAC tại Dublin năm 1997 và Giải thưởng Nhà nước Áo cho Văn học châu Âu năm Montero 1951-Cô đã được ca ngợi là cả một nhà báo và một tiểu thuyết gia. Tiểu thuyết của ông Chức năng Delta và Ngôi nhà điên, đã có những thành công lớn về văn học và thương đã giành được giải thưởng Qué Leer cho cuốn sách hay nhất được xuất bản ở Tây Ban Nha, và giải thưởng Grinzane Cavour của Ý cho cuốn sách nước ngoài hay nhất. Ông cũng đã nhiều lần giành giải thưởng báo chí quốc Vila-Matas 1948-Ông đã xuất sắc trong nhiều cách đánh giá phim, tiểu thuyết, tiểu luận và kịch bản phim. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Woman in the Mirror, khi ông còn là một thiếu các giải thưởng mà nó đã giành được, họ nhấn mạnh giải thưởng của Ý là Bottari Lattes Grinzane, giải thưởng Pháp Jean Carriere và giải thưởng Leteo của Tây Ban Nha. Các tác phẩm của Vila-Matas đã được dịch sang nhiều ngôn học đương đại ở ColombiaTính năngPhong trào văn học Colombia đương đại chịu ảnh hưởng rất lớn từ lịch sử chính trị của đất nước. Trong các chủ đề sản xuất tiểu thuyết như chiến tranh nội bộ, buôn bán ma túy, tham nhũng, trong số những người ra, bản sắc dân tộc đã trở thành hợp lệ. Bằng chứng về điều này là số lượng lớn các tác phẩm về lịch sử chính trị, văn hóa và xã hội của đất nước. Đồng thời, những cách kể chuyện mới lạ đã xuất hiện; một trong số đó là việc sử dụng chủ nghĩa hiện thực huyền giả đại diệnGabriel Garcia Marquez 1927- 2014Ông là một tiểu thuyết gia, người kể chuyện, nhà biên kịch và nhà báo người Colombia. Được biết đến như El Gabo trên khắp châu Mỹ Latinh, ông được coi là một trong những tác giả quan trọng nhất của thế kỷ 20 và là một trong những người giỏi nhất trong ngôn ngữ Tây Ban số nhiều sự công nhận của ông về đại diện không thể chối cãi này của chủ nghĩa hiện thực huyền diệu là Giải thưởng quốc tế Neustadt cho Văn học năm 1972 và Giải thưởng Nobel Văn học năm 1982. Trong số các tác phẩm văn học sâu rộng của ông có thể kể đến Một trăm năm cô đơn, Mùa thu của tộc trưởng, Tình yêu trong thời gian dịch tả và Biên niên sử của một cái chết được công Restrepo 1950-Cô là một nhà báo và nhà văn người Colombia được công nhận vì đã phát triển một sự pha trộn giữa thực tế và hư cấu để tạo ra một phong cách mà cô gọi là "phong cách báo cáo". Tác phẩm của ông làm nổi bật Isla de pasión, bò Las ăn mì spaghetti và tiểu thuyết Delirio của ông. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng này đã được trao giải thưởng Alfaguara năm Gabriel Vásquez 1973-Juan Gabriel Vásquez là một nhà văn nổi tiếng với tác phẩm El ruido de las cosas al caer. Trong tác phẩm này, người chiến thắng giải thưởng Alfaguara, nó xoay quanh việc buôn bán ma túy và bạo lực sau đó do Pablo Escobar gây ra. Tài liệu tham khảo Carnevale, J. s / f. Văn học đương đại là gì? - Định nghĩa & Phong cách viết. Lấy từ nghiên E. 2018. 11 tháng 3. Văn học đương đại là gì? Lấy từ S. s / f. Lịch sử và tuyển tập văn học Mỹ gốc Tây Ban Nha. Lấy từ s / f. Đặc điểm của văn học đương đại. Lấy từ thí nghiệm tâm thu. S / f. Văn học đương đại là gì? Lấy từ C. s / f. Văn học Mexico - Lịch sử và Khí hậu chính trị của Mexico. Lấy từ thelatino Tác A. 2018, ngày 10 tháng 1. 10 trong số các nhà văn Tây Ban Nha đương đại tốt nhất. Lấy từ C. 2017, ngày 11 tháng 6. 7 tác giả người Colombia đương đại không phải là García Márquez. Lấy từ R. 2012, ngày 19 tháng 11. Sự gia tăng của thể loại văn học. Lấy từ

nguồn gốc của văn học