nguyễn bỉnh khiêm tiên tri về bác hồ
Không Ngờ Lời Tiên Tri THẦN THÁNH Của Bác Hồ Về Số Phận Người Việt Nam Đã Trở Thành Hiện Thực. về thế sự thì chắc hẳn ai cũng đều nói đến những câu sấm truyền của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thiền sư Vạn Hạnh, Nguyễn Trãi,… Nhưng ít ai biết rằng
Sau khi đỗ Trạng nguyên năm 45 tuổi, ông được bổ chức Đông các Hiệu thư trật Chánh lục phẩm, tiếp theo được sung chức Tả thị lang Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (107) - 2016 64 bộ Binh trật Tòng tam phẩm, rồi lại được thăng Tả thị lang bộ Lại trật Chánh tam phẩm kiêm Đông các đại học sĩ và Nguyễn Bỉnh Khiêm được giữ chức này đến khi về hưu.
Câu 1: Nội dung văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh" : Phong cách sống và phong cách làm việc của Bác. Câu 2: Tác giả của văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh" : Lê Anh Trà. Câu 3: Việc tác giả liên tưởng Bác với các vị hiền triết xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi có ý nghĩa
Một góc nhìn khác về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình từ lâu được người đời biết đến với khả năng tiên tri về các biến cố trong lịch sử Viêt Nam từ thế kỳ thứ 16. Không dám mạo phạm bàn về tài năng, đức độ của một người vốn
Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm: có bố cục mặt bằng theo hình chữ "đinh" với Tiền tế 03 gian 02 chái và Hậu cung 02 gian. - Tiền tế : 03 gian, gian giữa rộng 3,17m, hai gian bên, mỗi gian rộng 2,80m và hai gian chái mỗi gian rộng 2,10m.
mimpi bertemu ayah yang sudah meninggal togel. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi 1491 mất 1585, tên Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, tại Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Cha là Văn Định tước Nghiêm Quận công, học vấn cao, đức độ. Mẹ là Từ Thục phu nhân, con gái Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan, học rộng, thông minh. Thiếu thời Nguyễn Bỉnh Khiêm học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Xôn xao chuyện tìm được mộ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Kỷ niệm 430 năm ngày mất danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm Lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà thông thái, nhà thơ lớn Xứ Nghệ “địa linh nhân kiệt” đã mấy trăm năm lưu truyền câu Sấm, đến đầu thế kỷ XX thì trở thành sự thật “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Nghĩa là “Núi Đụn phân đôi/ khe Bò Đái mất tiếng/ Nước sông Lam khoét vào núi Lam Thành/ đất Nam Đàn sinh thánh”. Các nhà Nho uyên thâm đều cho rằng lời Sấm ấy là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhiều người hỏi cụ Phan Bội Châu “Thánh” ở đây có phải cụ không? Cụ trả lời dứt khoát Là Nguyễn Ái Quốc. Cả lời Sấm và câu trả lời của cụ Phan đã được văn bản hoá in ở nhiều sách. Cụ Trạng Trình còn dự báo cả Cách mạng Tháng 8 năm 1945, qua câu thơ “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”. Có thể hiểu “đầu Thu” là tháng Tám dương lịch, “gà” là năm Ất Dậu 1945. Theo lối chiết tự thì “trăng xưa” nghĩa Nôm hiểu sang Hán tự là “cổ nguyệt” cổ = xưa, nguyệt = trăng, hai chữ Hán này ghép lại thì thành chữ “hồ”, chỉ Bác Hồ. Câu sau nói về sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Thăng Long Hà Nội. Cụ tiên đoán chắc chắn rằng “Hồng Lam ngũ bách nghinh thiên hạ/ Hưng tổ diên trường ức vạn xuân” Non nước Hồng Lam này sau ta 500 năm/ Sẽ là những mùa xuân hưng thịnh vĩnh viễn. Lịch sử đã khẳng định những tiên đoán của cụ hầu như đều đúng! Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ngay người Trung Hoa - đất nước của sấm ký, điềm, triệu cũng rất kính trọng và coi cụ là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”Về lý số An Nam có cụ Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi 1491 mất 1585, tên Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, tại Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Cha là Văn Định tước Nghiêm Quận công, học vấn cao, đức độ. Mẹ là Từ Thục phu nhân, con gái Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan, học rộng, thông minh. Thiếu thời Nguyễn Bỉnh Khiêm học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Năm 44 tuổi mới đỗ đạt. Làm quan tới chức Tả thị lang, Đông các Đại học sĩ. Trước tác văn thơ của cụ nay được in thành Tổng tập "Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tổng tập" 2014, NXB Văn học, 1647 trang, do Lê Hữu Nhiệm - Phạm Văn Ánh phiên âm, dịch, chú giải; "Bạch Vân am thi tập"; Lê Hiệu phiên Nôm. Cụ nổi tiếng ở cả thơ và sấm ký. Khái niệm “tiên tri” được hiểu là sự nhận thức đi trước thời đại, nhà tiên tri được hiểu là người biết được, tiên đoán được những sự kiện lớn sẽ xảy ra trong tương lai. Thế giới ghi nhận có rất ít người có khả năng này, như Nostradamus, Vanga, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Lời tiên tri là một mã văn hoá đặc biệt, nhiều khi bí hiểm nên để giải mã được người đọc phải vận dụng hiểu biết rộng rãi về tác giả, về văn hoá, chính trị, lịch sử, thời đại… Vì lẽ này mà dự đoán, tiên tri trở thành một nét văn hoá tâm linh luôn hấp dẫn, mời gọi. Trong văn học được nâng lên thành thi pháp kỳ ảo, huyền thoại. Ví dụ ở “Tam quốc diễn nghĩa” thì nhân vật Khổng Minh là nhà tiên tri kỳ tài. Các tiểu thuyết cổ điển truyền kỳ nước ta cũng có nhiều chi tiết tiên tri. “Truyện Kiều” cũng sử dụng thủ pháp này… Nhà tiên tri, tiếng Anh là prophet, gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là người phát ngôn của các vị thần. Ngay từ nguyên cũng cho thấy ở phương Tây, khái niệm tiên tri mang nghĩa truyền tin, rao giảng hơn là phán đoán, dự báo như ở phương Đông - là xứ sở có cả một nền triết học “Kinh Dịch” thần bí. Nhà tiên tri cổ điển phương Đông dứt khoát phải thật giỏi Kinh Dịch, như Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Sau này, Phan Bội Châu cũng rất giỏi Kinh Dịch. Nói thế cũng là một cách lý giải nhiều nhà tiên tri phương Đông do tự trang bị cho mình vốn kiến thức thật sự phong phú, sâu sắc Kinh Dịch được coi là tinh hoa của triết học cổ, là bộ bách khoa toàn thư kết hợp với sự nhạy cảm về thời thế chính trị, một tầm nhìn thông kim bác cổ mà có thể đưa ra những nhận định đi trước thời gian. Tác phẩm của họ, không chỉ trong sấm ký, mà trong văn thơ cũng giàu có chất triết lý về những quy luật của lịch sử, thời đại, về con người. Xin chứng minh trong thơ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy sự thống nhất giữa thơ và sấm ký của ông. Nhà thơ sống dưới thời nhà Lê suy thoái, vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, ngai vàng là chỗ để tranh giành, tàn hại. Các vua như Uy Mục, Tương Dực nổi tiếng xa hoa, dốt nát, dâm dật đến nỗi dân gian gọi bằng những cái tên khinh bỉ là “vua quỷ”, “vua lợn”. Nhà Mạc tiếm ngôi cũng không làm sáng thêm bức tranh lịch sử ảm đạm. Là người có chí, mà cụ ngầm nói muốn như con rùa “ngóc đầu vá trời” nhưng bất lực. Đời cụ hành ít tàng nhiều, xuất ít xử nhiều, đã rất băn khoăn “Thuở nay xuất xử đâu là phải/ Ở ắt nên, về cũng ắt nên”. Sự băn khoăn ấy lý giải cụ về hưu sớm rồi lại tham chính, tham chính lại về hưu, cả thảy đến ba lần. Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng với triết lý “nhàn”, nhưng không phải là nhàn kiểu chơi bời ở ẩn, mà là “nhàn” quan, không làm quan để đọc sách, làm thơ. Trong gần ngàn bài thơ của cụ có rất nhiều chữ tĩnh, tĩnh để suy ngẫm, tĩnh là một phép dưỡng sinh phải chăng nhờ thế mà cụ thọ gần một thế kỷ. Cơ bản nhất, tĩnh để hiểu lẽ trời “Càn khôn tĩnh lý suy” Lẽ trời đất hiểu được từ trong yên lặng… Cụ là nhà thơ triết lý, mà triết lý nhiều nhất là về chữ “tĩnh”. Cũng đúng với quy luật thông thường, nhờ có tĩnh để suy ngẫm sâu sắc hơn, nên thơ cụ cũng rất nhiều chữ tri. Tri là sự tính toán để biết thời thế “Tính toán đúng thì thừa thắng lợi/ Biết cơ ứng biến được vẹn toàn”. Có tri mới biết được bản chất, nguồn cội vấn đề “Chí tĩnh tri chân lạc” Thật yên lặng, nhìn rõ nguồn vui đích thực. Con người ta khi đạt đến độ hiểu biết nào đó giác ngộ mới đủ an nhiên tự tại mà nhận ra quy luật “Đất chuyển trời xoay tự nhiên/ Cơ tâm đều bỏ hết/ Được mất cũng vui lòng”… Có tri vốn hiểu biết mà người ta có trí nhận thức, nhận biết. Cụ đưa ra một nhận thức về chữ trí “Vị thức tiên cơ yên đắc trí” Chưa biết trước mọi việc sao có thể gọi là trí. Như vậy chữ trí gắn liền với tri mới có thể tiên tri. Đây cũng là quan niệm của Hồ Chí Minh sau này khi gọi văn nghệ sỹ là các bậc tiên tri, tiên giác! Muốn có tri, không cách nào khác phải đọc nhiều sách để tích vốn “Thi thư thiên quyển trợ nghiên tinh” Ngàn quyển thi thư giúp cho sự nghiền ngẫm đạt đến tinh vi. Còn ngược lại, lười đọc thì sẽ sa vào sự hoang dại, hoang hóa “Thánh học trăn vu cửu thất chân” Thánh học hoang vu, sẽ mất sự chân xác. Biết tĩnh, có tri, có trí nên trọng hòa, do vậy chữ hoà cũng xuất hiện trong thơ cụ với tần số rất cao. Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Một xã hội lấy hòa làm trọng, lấy đạo đức làm gốc để giáo hoá con người, đó là xã hội hạnh phúc “Ôi, hòa là chủ của âm nhạc, thiện là gốc của giáo hóa. Khánh đá một khi treo lên, tiếng vang khôn cùng”. “Khánh đá” trở thành nghĩa biểu trưng cho nghệ thuật. Nghệ thuật phải như khánh đá kia, phải vang lên âm thanh chức năng báo hiệu tỉnh thức con người. Rõ ràng quan niệm của Trạng Trình thật sự hiện đại, mới mẻ! "Tĩnh, Tri, Trí, Hòa" như bốn đỉnh tháp tư tưởng sừng sững trong thế giới thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hình như nhà thơ muốn nói với hôm nay xây tòa nhà giáo dục cho xã hội cũng như xây ngôi nhà nhân cách cho mỗi người thì phải lấy bốn chữ này làm nền móng! Nếu thiếu Tĩnh, con người sẽ không có bình tĩnh, điềm đạm mà dễ nóng giận; thiếu Tri sẽ dễ vô văn hóa; thiếu Trí sẽ không nhận ra đâu là phải trái; thiếu Hòa sẽ dễ gây ra xung đột… Mà thực tế hôm nay con người ta hình như đang thiếu cả bốn điều cơ bản ấy!!! Một vĩ nhân có sở học, kiến văn rộng lớn, sâu sắc, có một quan niệm nhân sinh tiến bộ mang đậm tinh thần triết học như thế cho thấy Trạng Trình là nhà tiên tri cũng dễ hiểu! Hôm nay, biển Đông của chúng ta đang có kẻ dòm ngó, đã được cụ Trạng Trình tiên đoán trước 500 năm trong bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn” Con rùa lớn đội núi. Cụ đã khẳng định chủ quyền và như tiếp thêm sức mạnh chính nghĩa cho con cháu “Vạn lý Đông minh quy bả ác/ Ức niên Nam cực điện long bình/ Ngã kim dục triển phù nguy lực/ Vãn khước quan hà cựu đế thành” Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững vàng hoà bình thịnh trị/ Nay ta muốn thi thố sức phù nguy/ Vãn hồi lại núi sông bờ cõi và kinh thành cũ của nhà vua. Niềm tin, khát vọng của cụ cũng là niềm tin, khát vọng của mọi người Việt Nam yêu nước!
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585 huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài, học hạnh. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con thượng thư Nhữ Văn Lan, thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Cùng chúng tôi điểm qua những bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất trong bộ sưu tập sáng tác thơ bạn nhé! Chức phận làm con Phận làm con phải thông đạo hiếu, Phận làm dân phải hiểu chữ trung. Trên ra lệnh, dưới phục tùng, Cha làm việc tốt, con cùng làm theo. Của cải nhiều dùng lâu cũng hết, Chữ hiếu trung hưởng mãi vô cùng. Bàn mưu tư lợi thì đừng, Bàn điều chân chính, nên cùng tham gia. Làm tốt chớ ba hoa kể lể, Hoa sớm nở, thì hoa dễ sớm tàn. Cẩn thận đáng giá ngàn vàng, Phải suy nghĩ kỹ hãy làm mới hay. Người tốt hay xắn tay làm phúc, Giúp ai không lợi dụng người ta. Người biết lỗi, sửa thì tha, Trị người có tội, chớ mà quá nghiêm. Dạy điều thiện, đừng nên tham quá, Để người học có khả năng theo Khoan hòa sẽ được tin yêu, Siêng năng cần mẫn ắt nhiều thành công. Nói thận trọng thì không sợ lỗi, Làm thận trọng đỡ hối về sau. Thế lực dù mạnh đến đâu, Nếu đem dùng hết, ắt sau hại mình. Hoặc cậy thế tạo thành phúc lộc, Hẳn rằng sau cũng chẳng ra gì. Cứ đường chính đạo mà đi, Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa nghĩ suy mà làm. Nói về giàu sang Bài thứ ba bàn sự giàu sang Giàu với sang ai chả ước mong, Nhưng giàu sang chẳng chính công, Là phi đạo đức, hẳn không lâu bền. Ai sống kẻ nghèo hèn cũng chán, Nhưng bất lương đuổi hẳn chẳng đi. No cơm hẩm thiết gì thịt cá, Vui cảnh nghèo, quên cả giàu sang. Người quyền quý, lắm bạc vàng, Lấy gương xử với họ hàng mà soi. Ở phải đạo, nhiều người giúp đỡ, Sống bất lương, ít chỗ thân tình. Thà nghèo giữ được thơm danh, Hơn giàu lắm chuyện phẩm bình, cười chê. Bọ ngựa rình con ve định bắt, Chim sẻ rình bọ sát phía sau… Tiếng tăm lừng lẫy càng nhiều, Tránh xa kẻ xấu sinh điều ghét ghen. Nhiều tài cũng lắm phen khốn khổ, Nhiều công là cái hố suy bì. Nhớ rằng đừng cậy, chẳng khoe, Phải luôn thận trọng chớ hề phô trương. Nói với bạn việc ngay ý thẳng, Phải người tham họ chẳng nghe đâu. Nói với quan chuyện thanh cao, Phải quan tham nhũng hẳn sau nó trù. Đại nghĩa Bài thứ tư nêu câu Đại nghĩa Dạy cho người ta biết để khuyên nhau. Trung với nước đặt lên hàng đầu, Đạo cha con được xếp vào đại luân. Trai tài biết thương dân, thủ tiết, Gái kiên trinh phải biết giữ mình. Người tài nước được thơm danh, Vợ giỏi như được ngọc lành trời cho. Gái bất chính thì cho chẳng lấy, Trai có tài mắc bẫy thì ngu. Bất trung dễ mắc mưu thù, Minh quân như mù mới lấy làm quan. Con dân thường chăm ngoan học giỏi, Cũng có ngày tiến tới làm quan, Con quan chẳng chịu học hành, Suốt đời cũng chỉ làm anh dân thường. Làm quan chức, thấm ơn chế độ, Có nuôi con, mới nhớ được công cha. Muốn lòng ngay thẳng thật thà, Rèn luyện ý trí phải là đầu tiên. Chí thiện Bài thứ năm Tâm linh chí thiện Mong tốt lành mọi chuyện công tư. Rất vui là đọc thi thư, Việc đời mệt nhất ấy là dậy con. Cha nghiêm phụ răn con hiếu thảo, Mẹ nhân từ dạy bảo gái ngoan. Nhà lành hương toả chi lan, Ở lâu chẳng thấy mùi thơm ngạt ngào. Gần kẻ ác như vào chợ cá, Buộc người ta quen cả mùi tanh. Có nết tốt chẳng kiêu căng, Đức dày thêm mãi tạo thành thói quen. Giàu chớ kiêu chớ nên ích kỷ, Sang cũng đừng xa sỉ, hợm đời. Việc làm muốn tốt tuyệt vời, Ba lần căn nhắc hẳn hoi mới làm. Suy tính kỹ bao hàm hai ý Việc chung riêng thấu lý đạt tình. Từ xưa vẫn sợ, vẫn kinh, Lòng người nham hiểm nảy sinh khó lường Kẻ tiểu nhân mưu đồ xảo quyệt, Thích mưu đồ tiêu diệt người ngay. Cho dù hiểm độc, quắt quay, Không qua lẽ phải, chẳng xoay đạo trời. Kẻ bất nhân nhất thời nổi tiếng, Không người thì trời diệt chẳng tha Tự nhiên được của đầy nhà, Một là lộc lớn, hai là họa to Có lúc bại, trời cho thắng cuộc, Hoặc đang nghèo bỗng được giầu sang. Thế gian yêu lắm ghét nhiều, Khen nhiều chê lắm, bao điều bất an. Mừng nhiều lo lắm chẳng oan, Vinh nhiều nhục lắm, thế gian thường tình. Đừng cậy thế mà sinh kiêu ngạo, Chớ cậy quyền để tạo lợi riêng. Làm một điều thiện cũng nên, Trừ một việc ác quả nhiên rất cần. Sinh sự thì bận tâm mệt sức, Nên nhún nhường tạo Đức thì hơn. Việc chuẩn bị kỹ hãy làm, Việc không chuẩn bị chớ tham làm bừa. Bao kinh nghiệm từ xưa đã thấy, Sai một ly đi mấy dặm đường. Quả quyết được việc lẽ thường, Đắn đo hỏng việc, ấy gương ở đời. Sắc chẳng mê người, chính người mê sắc, Rượu chẳng say người, chỉ tại người say. Đừng nên vui quá nói chầy, Chớ vì sướng quá vung tay làm liều. Quý chim phượng bởi yêu lông cánh, Trọng người hiền ở cách nói năng. Gặp khi hoạn nạn khó khăn, Hành vi tế nhị, nói năng lựa lời. Mười mắt rồng và mười tay trỏ Thật công minh sáng tỏ sâu xa Quả đào người quý tặng ta, Ta lấy quả mận đem ra biếu người. Cung nỏ lạ chớ cầm mà khốn, Ngựa chẳng quen, chớ cưỡi mà ngã. Qua ruộng dưa chớ sửa giầy, Dưới gốc mận chớ giơ tay sửa đầu. Coi chừng chốn cửa cao nhà rộng, Đừng cậy rằng tông tộc mình to. Họ to lắm chuyện tò mò, Cửa cao thường giở những trò kiêu căng. Người tốt, chơi nói năng chân thật, Kẻ xấu, chơi như mật chết ruồi. Người tốt bền chí thức thời, Khó khăn thuận lợi vẫn nuôi chí bền. Kẻ xấu thường van xin lúc khó, Được việc rồi thì nó quên luôn. Mới hay muôn sự vui buồn Những điều chí thiện phải luôn ghi lòng. Thiện ác Bài thứ sáu Hai dòng Thiện–Ác Là hai điều thật khác nhau xa Trăm năm trong cõi người ta, Dở, hay báo ứng, thật là công minh. Báo ứng có khi nhanh, khi chậm, Nhà tối, nghèo nào dám coi khinh. Việc làm phúc nếu vô tình, Như tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn. Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu, Bịp được người sao giấu được trời Vầng dương mọc lặn luân hồi, Mặt trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong. Tình người cũng tụ, xong lại tán, Buồn lại vui, vui chán lại buồn. Cỏ hoa sớm nở tối tàn, Cây tùng cây bách muôn ngàn sức xuân. Mỗi ngày xét bản thân ba lượt Đêm nhiều người sẽ biết cho ta. Số trời vốn sẵn định ra, Giàu sang có mệnh, vinh hoa có ngày. Hoa nở muộn do cây cằn cỗi, Đời chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo. Giàu sang, khách đến thăm nhiều, Nghèo hèn, thân thích ra chiều cách ly. Lúc dư dật, phòng khi túng thiếu, Khi sướng vui, phải liệu khi buồn. Một nhà nề nếp cương thường, Cha từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng. Tình anh em thuận lòng nhân ái, Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau. Người con phòng lúc ốm đau. Chứa thóc phòng đói là câu chí tình. Giúp người gặp cảnh tình nguy cấp, Hoặc cứu người trong lúc gian nguy. Có mới đừng nới cũ đi, Tiếng nói một nẻo, bụng suy một đằng. Chớ có lành bắt vành ra méo, Đừng làm cho bé xé ra to. Một chút tà tất quanh co, Người ta sẽ tỏ các trò quắt quay. Lời không cánh mà bay khắp ngả, Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu. Ngọc vết mài chẳng khó đâu, Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành. Lời đã nói bay nhanh hơn gió, Bốn ngựa phi cũng khó đuổi theo. Khinh người là thói tự kiêu, Người ta khinh lại, đời nào chịu thua. Tự khen mình mà chê người hỏng, Thì người ta có trọng gì mình. Hãy suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh Ở sao có nghĩa có tình thì hơn. Việc gia thất muốn yên mọi sự Mỗi người nên biết xử phận mình Đừng mưu lấy của bất minh Chớ ghen ghét với người mình còn thua. Vợ người ta chớ đùa cợt nhả, Đừng gièm pha quấy phá hôn nhân. Một năm có một mùa xuân, Mỗi ngày chỉ một giờ dần đầu tiên. Cháy nhà có nước liền dễ chữa, Láng giềng cần giúp đỡ lẫn nhau. Tình đời lắm chuyện thương đau, Anh em để mẩt lòng nhau thật buồn. Người xưa bảo thói quen thường vẫn vậy, Đàn bà thì khó dạy khó chiều. Quân tử phép chẳng cần theo, Tiểu nhân chẳng chấp những điều lễ nghi. Thấy ai có vật gì quý giá, Chớ lân la tán gạ, nài xin. Công việc nào quá khó khăn, Đừng buộc người khác phải lăn vào làm. Muốn trách người, phải xem mình trước. Nếu tha mình, tha được người ta. Đứa bất chính, kẻ gian tà, Kết thân với chúng dễ mà tàn thân. Không minh bạch miếng ăn lời nói, Là nguyên nhân cái tội hại mình. Lúc trẻ lao động nhiệt tình, Khi già cuộc sống gia đình thảnh thơi. Trẻ mà lêu lổng chơi bời, Về già chắc hẳn cuộc đời gian truân. Của cho con đâu cần vàng ngọc Mà cho con được học được hành. Cho muôn khoảnh ruộng tốt xanh, Chẳng bằng cho chúng nghề lành trong tay. Mộng làm giầu thường hay thất đức, Làm điều nhân khó được giầu sang. Thuốc hay khó chữa bệnh oan, Của nhặt được khó mở mang giầu bền. Bất nghĩa mà trở nên phú quý, Như mây bay bọt khí nổi trôi. Phúc do trong sạch lòng người, Đức từ kiên nhẫn sống đời yêu thương. Tham lam lắm tất vương tai họa, Sống bất nhân tội chả thoát đâu. Tiểu nhân chẳng giúp ai đâu, Bởi trong lòng họ, như đầu mũi kim. Chỉ gai góc rắp tìm mưu kế, Cốt hại người để mong lợi mình. Người quân tử có bất bình, Liệu mà xa lánh, kẻo sinh hận thù. Tình người khác chi tờ giấy trắng, Như cuộc cờ vốn chẳng giống nhau. Khéo mà ứng xử với nhau, Đừng làm ai đó phải chau đôi mày, Chớ mạt sát day tay mắm miệng, Để người ta phải nghiến hàm răng. Ngựa gầy nên kém chạy hăng, Người không hồ hởi phải chăng vì nghèo. Sẵn tiền, rượu thì nhiều bạn đấy, Lúc lâm nguy nào thấy một ai. Luật trời báo ứng chẳng sai, Không trước mắt, cung lâu dài chứng minh. Tích thiện Bài thứ bẩy khuyên luôn tích thiện, Chứa điều lành như mặt trời lên. Rất vô tư, rất tự nhiên, Sáng soi muôn nẻo chẳng phiền đến ai. Chứa điều ác là tai họa đấy, Lửa trên đầu nào thấy mà lo. Chuyện ác dù chẳng nói to, Trên trời rung động tự hồ sấm vang. Việc mờ ám tưởng không ai biết, Nhưng mắt thần như điện sáng soi. Giầu sang đúng phận thì thôi, Nghèo hèn xử sự đúng môi trường nghèo. Suy từ ta ra nhiều người khác, Khoe điều lành, điều ác giấu đi. Thấy ai làm ác điều gì, Khéo can ngăn, hoặc nghoảnh đi chớ nhìn. Chuyện người khác không đem đàm tiếu, Mặc người ta, mạnh, yếu, giở, hay. Nói nhiều nghe cũng chán chầy, Khuyên nhiều sinh oán, bấy nay lẽ thường Khi yêu cũng nên lường lúc ghét, Lúc ghét nên nhớ đến khi yêu. Việc làm, lời nói, ít nhiều, Phải nên hướng thiện, phải theo phận mình. An phận Giữ yên phận là bài thứ tám Đừng để người đụng chạm đến ta Biết lo tính, biết phòng xa, Khoan dung ngay thẳng hẳn là sống lâu. Nước chân chính, lòng trời cũng thuận, Quan thanh liêm dân hẳn yên lòng Vợ hiền là phúc nhà chồng, Các con hiếu thảo thì lòng cha yên. Dẫu có tài giỏi chớ nên khoe khoác, Nhiễu sự sao bằng được an nhàn. Bốn mùa ấm lạnh xuềnh xoàng, Nói năng thận trọng rõ ràng được yên. Của dễ được tất nhiên dễ mất, Được vất vả thì mất khó khăn. Làm thong thả việc chắc ăn Việc đời muôn sự khó khăn ban đầu. Người xưa nói những câu triết lý Vào núi bắt hổ dễ như chơi, Còn khi mở miệng dạy người, Khó khăn nhiều lắm, liệu lời đắn đo. Quân tử cần ăn no uống đủ, Không cầu kỳ cốt giữ bình yên. Trò tìm thầy học dễ tìm, Thầy tìm trò tựa mò kim đáy hồ. Việc chia chác chẳng lo ít ỏi, Chỉ đáng lo cái tội không đều. Không lo hoàn cảnh túng nghèo, Chỉ lo xã hội nhiều điều bất công. Quá nham hiểm bởi lòng tham lắm. Quá nhẫn tâm lòng hẳn quá tàn. Đại đạo Giữ đại đạo là bài thứ chín, Lấy chữ “Trung” chữ “Tín” làm đầu. Người quân tử đạo đức cao, Không kiêu thái, giữ trước sau chan hòa. Khi cần giúp người ta việc gấp, Chẳng chọn ngày, đừng bấm ngón tay. Người được ta cũng mừng thay, Người đau, thông cảm đắng cay cho người. Nói thao thao ngàn lời tươm tất, Cũng không bằng việc thật đã làm. Kiếm lời chê trách nhân gian, Chính là chuốc lấy mối oan hại mình. Ta giúp người chân tình độ lượng, Là góp điều làm phước đáng tin. Trăm nghe không bằng một nhìn, Một việc thực tế hơn nghìn lời suông. Việc trời đất cũng thường thay đổi, Sáng gió mưa, chiều đã đẹp trời. Giống như cuộc sống một con người Sáng chiều, may rủi đầy vơi chuyển vần. Có việc đối với ta như thế Nhưng với người đâu rễ giống ta Khi lời nói trái phát ra, Tất nhiên cái họa cũng sà vào theo. Của phi nghĩa đưa vào cửa trước, Nó cũng tìm đường bước lối sau. Đừng làm những chuyện không đâu Chớ tham của lạ để sau bận lòng Việc đừng quá lao tậm cật lực, Nên đắn đo vừa sức thì làm, Không lười biếng chẳng tham lam Học điều Đại đạo – để làm thực tâm. Học vấn Bài mười lăm răn đường học hỏi. Có tư duy mạnh giỏi hơn người. Trước là đẹp đạo đất trời, Sau là xây dựng tình người đẹp hơn. Hiếu với cha thời con hiếu lại, Kính trọng người người lại trọng ta. Chớ tin những thuyết tà ma, Nó làm chìm đắm xấu xa lòng người. Người xưa bảo tiền tài – phấn đất, Nghĩa nhân kia mới thật là ngàn vàng. Đường dài thử sức gian nan, Sống lâu mới biết ruột gan tình người. Biết giữ phận thì đời nhàn hạ, Không gian tham tai họa khó vào. Vận đen vàng hóa ra thau, Vận đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi. Rượu trắng nhuốn đỏ mặt người Bạc vàng dễ nhuộm lòng người tối đen. Nghèo giữa chợ ai thèm thăm hỏi, Giàu trên rừng có khối người thương. Vẽ hổ khó vẽ bộ xương, Biết người biết mặt khó lường lòng ai. Không đáng sợ sức hai con hổ, Chỉ sợ người ăn ở hai mang Sống đại lượng phúc huy hoàng. Mưu sâu tai họa ắt càng thêm sâu. Vợ chồng hiệp sức nhau bàn bạc, Có tiền mua nhiều lạng vàng dòng. Vợ chồng ăn ở khác lòng Có tiền đâu dễ sắm cùng cái kim Trị nhà như cầm cương ngựa dữ, Trị nước như dạo thử cung đàn. Cho nên học hiểu và làm, Lẽ trời với lẽ dân gian hài hòa, Muốn xây phú quý vinh hoa, Cái nền học vấn phải là đâu tiên. Tu đức Bài mười sáu thường xuyên tu đức, Phải chuyên tâm nỗ lực hàng ngày. Học rồi thực tế làm ngay, Rút ra kinh nghiệm dở hay sự tình. Tu đức tốt tướng sinh ra tướng, Con thảo hiền sinh được cháu ngoan. Nhà nghèo nhờ vợ đảm đang, Nước loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành. Âm dương hòa không sinh lụt bão, Vợ chồng hòa thì đạo nhà nên. Tránh điều nghi kỵ hờn ghen, Đàn bà tiếp khách phải nên nhớ rằng Cử chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng, Khi đưa tiễn khách xin đừng quá chân. Bốn đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh, Người đàn bà gánh nặng lo toan. Đừng kiêu sa, chớ lăng loàn, Đừng ghen ghét chớ giận hờn với ai. Gái yêu chồng đẹp vui mọi vẻ, Giúp chồng nuôi con khỏe con ngoan. Dựng xây tôn thống họ hàng, Sáng trong như ngọc, nết càng đẹp ra. Khi lòng dục dâm tà đã mở, Quên yêu thương bỏ cả lễ nghi. Nết hư dù chỉ một ly, Tiếng tăm đồn đại bay đi khắp vùng. Lương tài Bài mười tám răn chữ lương tài Lương là đạo cao đức trọng Có lương tài chết sống thơm danh. Người tài lành có bạn lành, Người ác bạn ác kết thành tai ương. Người lương tài nên thường nói thẳng, Kẻ xấu xảo nịnh chẳng thương yêu. Người lành nói ít làm nhiều, Tiểu nhân múa mép, lắm điều ba hoa. Người lành không gian tà uẩn khúc, Hành động luôn chính trực, phân minh. Kiệm cần có lý có tình, Để không mang tiếng rằng mình kiêu sa. Vụng may áo gấm cũng hỏng, Làm bậy thì phá hỏng cơ ngơi. Biết ít thì sống thảnh thơi, Biết nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi. Người giúp việc cần chi đẹp xấu, Cần chọn người trung hậu, chăm ngoan. Lòng người, nọc rắn khó phân, Mặt trời ai biết chuyển vần như xe. Của xóm Đông lấy về hôm trước, Đến hôm sau nó ngược xóm Đoài Việc hôm nay, việc ngày mai. Hãy đem hai chữ Lương Tài mà xem. Thịnh đức Bài hai mươi là thiên thịnh đức Một số điều đã được rút ra. Người thực tài chẳng ba hoa, Thường khi dung mạo cứ là như ngây. Có ruộng không cấy cày thì đói, Có sách không học hỏi thì ngu. Trai không dạy, khác chi lừa, Gái ngu thì cũng giống như lợn sề. Trai sợ vợ bởi vì nhu nhược, Gái kính chồng vì được nết ngoan. Phải dè xẻn bởi thiếu ăn, Sống xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa. Vừa lười nhác, lại vừa ngu xuẩn, Thì giầu sang đâu đến mà mơ. Hay đến thân cũng thành sơ, Ngồi dai chủ chẳng bao giờ thích đâu. Uống rượu đấu khẩu nhau ít chứ, Mới là người quân tử phòng thân. Thóc tiền sòng phẳng đồng cân, Mới là đức độ, tinh thần trượng phu. Con cá bị giật lên bờ Có hối cũng chẳng bao giờ được tha. Làm việc xấu đã sa pháp luật, Hối ba lần cũng thật muộn mằn. Nước loạn chớ đến dung thân Nơi nguy hiểm chớ bước chân lần vào. Phép quyền biến làm sao biết trước, Phải đắn đo mong được an toàn, Lò lửa ví như phép quan, Lòng người như sắt như gang trong lò Người yếu phải nương nhờ người mạnh, Giúp được người là hạnh phúc thay, Không thù dai chẳng hại ai, Tuy nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân. Trên lượng cả, chẳng cần phạt dưới, Kẻ trịch thượng từ chối đừng chơi. Nước trong ít cá lội bơi, Sống nhiều khe khắt, ít người mến thân. Hiếu hoàn Bài hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn. Hiếu hoàn luật xoay vần vay trả, Báo ứng nhanh gương đã nhiều rồi. Nhạt nồng khéo ở lòng người, Dở hay đã có đạo trời phân minh. Trời mưa gió thình lình bất chắc, Người có khi dồn dập tai ương. Có đức dễ được thọ trường, Tu nhân tích đức, phúc thường dầy thêm. Lừa dối người là mầm tai họa, Phúc dầy nhờ lượng cả bao dung. Cẩn thận chẳng sợ khốn cùng, Nhẫn thì chẳng nhục, vạ không đến mình. Sống bình tĩnh được yên lành mãi Biết kiệm cần đỡ phải reo neo. Trên sông tùy khúc bơi chèo, Vào nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo. Dạy con cháu bằng điều từ thiện, Lấy khoan dung điều khiển người theo. Một năm kế hoạch ăn tiêu, Không gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai Kế mười năm dài hơn một chút, Không gì bằng trồng được nhiều cây. Còn như kế hoạch lâu dài, Là trồng cây đức dẻo dai liền liền. Dù lắm tiền thuốc men tẩm bổ, Chẳng bằng đêm nằm ngủ riêng giường. Dạy con lần mở văn chương, Ở trong vùng bạc kim cương có thừa. Một con được ơn vua lộc nước, Để cả nhà cũng được thơm lây. Siêng năng học tập đêm ngày, Để mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn. Việc đúng cứ tiến hành đừng sợ, Trời sẽ cho phúc ở tầm tay Lấy điều đạo lý xưa nay, Truyền cho con cháu đời này đời sau. Thú nhàn Lẩn thẩn ngày qua tháng qua, Một phen xuân tới một phen già. Ái ưu vằng vặc trăng in nước, Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa. Án sách hãy còn án sách cũ, Nước non bạn với nước non nhà. An phận thì hơn Giàu ba bữa khó hai niêu, An phận thời hơn hết mọi điều. Khát uống trà mai hơi ngột ngột, Sốt kề hiên trúc gió hiu hiu. Giang sơn tám bức là tranh vẽ, Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu. Thong thả hôm rằm sớm thức, Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu. Lòng thư thái Vinh nhục bao phen hẳn đã từng Lòng người sự thể dửng dừng dưng Khen thì nên tốt, chê nên dại Mất cũng chẳng âu được chẳng mừng Có ai biết được lòng tri kỷ Vời vợi non cao nguyệt một vừng Điền viên thú Trải gian nguy đã mấy phen, Thân nhàn phúc lại được về nhàn. Niềm xưa trung ái thề chăng phụ, Cảnh cũ điền viên thú đã quen. Ba quyển đồ thư thu nặng túi, Một thuyền phong nguyệt chở đầy then, Trời cũng biết nơi lành dữ, Hoạ phúc chăng dung cái tóc chiên. Thú ẩn dật Một cơ yêu nhọc đổi thay điều Yêu bao nhiêu thì nhọc bấy nhiêu. Tham phải cái công danh luỵ, Muốn cho con tạo hoá trêu. Vui vườn Lạc Xã năm khách, Lánh đất Nam Dương một lều. Khuyên đời Mựa chê người vắn, cậy ta dài, Dù kém dù hơn ai mặc ai. Vị nọ có bùi, không có đượm, Thức kia chầy thắm, lại chày phai. Dù hay phận mới, yên dầu phận, Dẫu có tài hơn, chớ cậy tài. Quân tử niệm đời nơi xuất xử, Ắt cùng khôn hết cả hoà hơi. Mặc chê khen Thị phi chẳng quản mặc chê khen, Ngu dại trần trần tính đã quen. Cảnh cũ điền viên tìm tính cũ, Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn. Nhà thông đường trúc lòng hằng mến, Cửa mận tường đào bước ngại chen. Sự thế tuần hoàn hay đắp đổi, Từng xem thua được một hai phen. Dại khôn Làm người có dại mới nên khôn, Chớ dại ngây chi, chớ quá khôn. Khôn được ích mình, đừng để dại, Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn. Khôn mà hiểm độc là khôn dại, Dại vốn hiền lành ấy dại khôn. Chớ lấy rằng khôn khinh kẻ dại, Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn. Thú dưỡng thân Mới hay phú quý bởi thời vần, Tua sá ngang tàng thú dưỡng thân. Bất ý miệng ngâm câu quốc ngữ, Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân. Đường hoa chào khách mặt nhìn mặt, Ngõ hạnh đưa người chân đá chân. Dẫu có ai han thời sẽ nhủ Thái bình thiên tử, thái bình dân. Tiêu sái tự nhiên Tiêu sái tự nhiên ắt nhẹ mình, Nài bao quyền cả áng công danh. Vô tâm nước có gương soi bạc. Đắc thú kho đầy gió mát thanh. Trẻ dầu biết cơ tạo hoá, Già lọ phục thuốc trường sinh. Thanh nhàn dẫu được qua ngày tháng, Non nước còn xem chốn hữu tình. Của nặng hơn người Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười, Có của thì hơn hết mọi lời. Trước đến tay không nào đoái hỏi, Sau vào nặng túi lại vui cười. Anh anh chú chú mừng hơ hải, Rượu rượu chè chè thết tả tơi. Người của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người. Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6 tháng 4 năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông 13 tháng 5 1491, ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Cha của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định người huyện Vĩnh Lại là người có tướng sinh quý tử. Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn Tuyết Giang nối đôi bờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, qua đó cho thấy người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ. Những sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Thể loại sáng tác Thơ chữ Hán Bài chi tiết Bạch Vân am thi tập Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết “… Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân” Bạch Vân am thi tập tiền tự. Thơ chữ Nôm Bài chi tiết Bạch Vân quốc ngữ thi tập Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc. Các thể loại khác Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ cả chữ Hán và chữ Nôm còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia bi ký nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh… Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa. Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm ký Nôm thường mang tên Trạng Trình Sấm Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Những giá trị của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri… Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Trên đây là một số những sáng tác nổi bật của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm do đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng với những thông tin trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều hiểu biết hơn về nhà thơ bạn nhé! Xem thêm +666 Lời Chúc Buổi Tối Vui Vẻ và Lãng Mạn nhất Anh Ngữ Quốc Tế Ocean Edu +222 Hình tô màu máy bay trực thăng cho bé đẹp Hướng dẫn cách chọn mua mành tre cuốn sushi tốt nhất Top 20 Trường THPT tại Hà Nội nổi tiếng đào tạo tận tâm nhất
PLVN -Trong lịᴄh ѕử khoa ᴄử Việt Nam, ít ᴄó ông Trạng nào tên tuổi lại đượᴄ nhắᴄ đến ᴠới nhiều giai thoại kỳ bí như Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm. Dân gian truуền tụng ᴠề ông như một ᴠị Thánh ᴄủa nướᴄ Việt, ᴠới khả năng thấu thị ᴠà tiên tri ᴠề ѕố mệnh, ᴠận mệnh...Bạn đang хem Lời tiên tri ᴄủa nguуễn bỉnh khiêm ᴠề báᴄ hồ Toàn ᴄảnh Khu di tíᴄh Nguуễn Bỉnh Khiêm Nguуễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguуên khoa Ất Mùi 1535, đời Mạᴄ Đăng Doanh. Nhưng ông ᴄhỉ làm quan ᴠới nhà Mạᴄ ᴄó 7 năm ᴠà ѕau khi dâng ѕớ хin ᴄhém 18 tên quуền thần không đượᴄ ᴄhấp nhận, ông хin ᴠề an trí tại quê nhà. Giai thoại kỳ lạ ᴠề ѕự ra đời ᴄủa Trạng Trình Quê hương Nguуễn Bỉnh Khiêm nằm bên bờ ѕông Hàn, ᴄòn ᴄó tên là ѕông Tuуết. Nơi đâу ông đã mở trường dạу họᴄ ᴠà ѕau khi ông mất, ᴄáᴄ họᴄ trò đã mượn tên ѕông mà tôn ông làm Tuуết Giang Phu Tử. Trong đền thờ Nguуễn Bỉnh Khiêm ᴄó một ᴠế ᴄâu đối như ѕau “Lý họᴄ thâm nguуên Trình tiên giáᴄ” Dịᴄh nghĩa Trạng Trình hiểu ѕâu ѕắᴄ lý họᴄ, biết trướᴄ ᴄáᴄ ᴠiệᴄ. Chính khả năng nàу đã tạo nên màn ѕương huуền thoại хung quanh ᴄuộᴄ đời ông. Giai thoại ᴠề Nguуễn Bỉnh Khiêm trướᴄ hết gắn liền ᴠới giai thoại ᴠề người mẹ ᴄủa ông. Truуện kể rằng, mẹ ông, bà Nhữ Thị Thụᴄ, ᴄon gái quan Thượng thư Tiến ѕĩ Nhữ Văn Lan, là một phụ nữ tài năng mẫn tiệp, tinh thông lý ѕố. Sống dưới thời Hồng Đứᴄ Lê Thánh Tông, bà đã biết trướᴄ rằng nhà Lê ѕẽ ѕuу уếu nên ᴄó ý kén một người ᴄhồng ᴄó tướng ѕinh quý tử để tính ᴄhuуện đại ѕự quốᴄ gia. Kén mãi không gặp người ᴠừa ý, mãi đến năm ngoài 30 tuổi, bà đành kết bạn ᴠới ông Nguуễn Văn Định, họᴄ trò Quốᴄ Tử Giám ᴠà ѕinh ra Nguуễn Bỉnh Khiêm. Mộng lớn ᴄủa bà ѕẽ ѕinh ra ᴄon làm Thiên tử, ᴄhứ không ᴄhịu ᴄông hầu khanh tướng. Vì thế, hôm động phòng hoa ᴄhúᴄ, bà ᴄắm ᴄhiếᴄ đũa ở ngoài ѕân ᴠà dặn ᴄhồng “Khi bóng trăng đến ᴄhiếᴄ đũa, ông mới đượᴄ nhập phòng”. Đợi lâu quá, ông Định nóng ruột đẩу ᴄứa bướᴄ ᴠào, bà tráᴄh “Ông ᴠội ᴠàng như thế, ᴄon ᴄái ѕau nàу ᴄhỉ làm đến Tứ trụ hoặᴄ đỗ Trạng nguуên là ᴄùng, ᴄhứ không thể làm đượᴄ Hoàng đế”. Bứᴄ tượng Nguуễn Bỉnh Khiêm tại trường THPT Chuуên Nguуễn Bỉnh Khiêm tỉnh Vĩnh Long Một hôm, khi bế ᴄon ᴄhơi ở bến đò Hàn, bỗng thấу một người tướng mạo phi phàm bà liền than rằng “Sao ta không ѕớm gặp người nàу?”. Người đó ᴄhính là Mạᴄ Đăng Dung. Thựᴄ ra, đâу ᴄhỉ là giai thoại, ᴄhứ ѕự thựᴄ khi đó Mạᴄ Đăng Dung mới ᴄhỉ là một ᴄậu bé. Hôm kháᴄ, bà đưa ᴄon ᴠề quê, dọᴄ đường gặp một thầу tướng Trung Hoa. ѕau khi liếᴄ nhìn dung mạo ᴄủa Nguуễn Bỉnh Khiêm, thầу tướng buột miệng khen “Tướng mạo ᴄủa thằng bé nàу không phải tầm thường. Nhưng ᴠì nướᴄ da hơi thô nên ᴄhỉ làm đến Trạng nguуên thôi”. Lớn lên, Nguуễn Bỉnh Khiêm theo họᴄ quan bảng nhãn Lương Đắᴄ Bằng. Một hôm, ᴄụ Lương Đắᴄ Bằng ốm, biết mình không ѕống đượᴄ bao lâu, bèn gọi Nguуễn Bỉnh Khiêm lại, ᴄhỉ ᴄho ông một ᴄái tráp để trên đầu giường, giở ra lấу một bộ ѕáᴄh quý. Cụ Bằng nói “Thầу ᴄho ᴄon ᴄuốn ѕáᴄh quý nàу ᴠì ᴄhỉ ᴄó ᴄon mới ᴄó thể hiểu đượᴄ nó. Lúᴄ thầу đi ѕứ qua Tàu, ᴄó gặp một ᴄụ già trao ᴄho thầу ᴄuốn ѕáᴄh nàу ᴠà nói Ta không ᴄho nhà ngươi mà nhờ người đem ᴠề giao ᴄho một người An Nam’. Thầу ngạᴄ nhiên hỏi tên người đó, ᴄụ già bảo Không ᴄần, ᴄhừng nào trong tâm linh nhà ngươi muốn ᴄho ai là người ấу đượᴄ phần’. Sau nàу thầу mới biết ᴄụ già đó là một dị nhân”. Bộ ѕáᴄh ấу ᴄhỉnh là ᴄuốn “Thái Ất thần kinh”. Nhiều người ᴄho rằng, Nguуễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên ᴄứu ᴄuốn ѕáᴄh nàу mà thông ѕuốt đượᴄ mọi ᴠiệᴄ trong quá khứ, tương thêm Vân Tịᴄh Truуện Câu ᴄhuуện trong dân gian Tối 30 Tết năm đó, Nguуễn Bỉnh Khiêm đang ngồi đàm luận lý ѕố ᴠới một người họᴄ trò ở хa đến bỗng ngoài ᴄửa ᴄó tiếng gọi. Ông ѕai gia nhân ra bảo người đó hãу ᴄhờ một ᴄhút. Trong khi đó, ông ᴠà người họᴄ trò ngồi bấm quẻ để хem thử người gõ ᴄửa ᴄó ᴄhuуện gì. Cả hai thầу trò đều bấm ᴠào quẻ “Thiết đoản mộᴄ tràng”, nghĩa là “ѕắt ngắn gỗ dài”. Người họᴄ trò nói “Thưa thầу, ѕắt ngắn gỗ dài, theo ý ᴄon, người nàу ᴠào đâу ᴄhắᴄ hắn ᴄhỉ ᴄó mượn ᴄái mai đào đất. Chứ ngoài ra không ᴄó ᴄái gì nữa”. Nguуễn Bỉnh Khiêm ᴄười “Tôi lại đoán anh ta ᴠào mượn ᴄái búa”. Quả nhiên người gõ ᴄửa ᴠào mượn ᴄái búa thật! Anh họᴄ trò hỏi lý do thầу đoán đúng, Nguуễn Bỉnh Khiêm giải thíᴄh “Như anh bấm quẻ ᴄũng là giỏi nhưng mứᴄ đoán ᴄòn thấp. Anh nói ѕắt ngắn gỗ dài mà đoán ᴠậу thử hỏi 30 Tết, người ta đến đâу mượn mai để làm gì? Tôi đoán người ta đến mượn ᴄái búa để bổ ᴄủi nấu bánh ᴄhưng. Bấm quẻ đã trúng, nhưng phán đoán phải ᴄó biến, linh hoạt mới tránh đượᴄ ѕai lầm”. Người họᴄ trò nghe хong rất khâm phụᴄ. Lại ᴄó giai thoại kháᴄ kể rằng, ở quê ông ᴄó một người họᴄ trò nghèo tên Bùi Sinh, một hôm đến hỏi Nguуễn Bỉnh Khiêm ᴠề kế làm giàu. Ông hỏi năm, tháng, ngàу, giờ ѕinh ᴄủa anh ta rồi bảo “Sáng mai, đúng ᴠào giờ Dần anh ᴄứ ra ᴄhỗ bờ ѕông mà đón, hề gặp ᴄái gì, dù dơ bẩn thế nào ᴄũng ᴠớt lên, anh ѕẽ giàu đấу!”. Bùi Sinh lạу tạ ra ᴠề. Theo lời dặn, anh ta ra ngồi ở mé ѕông để đợi. Vừa lúᴄ đó, trời đổ mưa хuống như trút nướᴄ, anh ta thối ᴄhí, định quaу ᴠề. Nhưng nghĩ ráng kiên nhẫn хem lời ᴄụ Trạng nói ᴄó đúng không. Ngồi ᴄhờ mãi, bỗng từ хa, một thâу người ᴄhết theo ѕóng tạt ᴠào bờ, ᴄhình ình ngaу trướᴄ mặt anh ta. Theo lời ᴄụ Nguуễn Bỉnh Khiêm hễ gặp gì ᴠớt nấу nên mặᴄ dù ᴄái thâу người đang thời kỳ phân hủу, anh ᴠẫn ᴄố gắng ᴠớt lên. Khi đem đượᴄ thâу người lên bờ. trời bỗng tạnh mưa. Nghĩ là điềm lành, anh ta хem lại đó là хáᴄ một người ᴄon gái, nhìn phụᴄ trang thì là người Trung Hoa, trên người đem theo rất nhiều ngọᴄ ngà ᴄhâu báu ᴠà ᴠàng bạᴄ. Bùi Sinh liền lấу lại ѕố ᴄủa ᴄải đó ᴠà ᴄhôn ᴄất người ᴄon gái хấu ѕố một ᴄáᴄh ᴄẩn thận. Trên đường trở ᴠề, anh phụᴄ tài Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm ᴠô ᴄùng. Sau đó ᴄhừng nửa tháng, bỗng ᴄó thông ᴄáo rằng ᴄó một ᴄông ᴄhúa đi thuуền ᴄhơi Nam Hải, không maу thuуền bị bão đánh, tất ᴄả mọi người trên thuуền đều ᴄhết hết, không biết thi thể ᴄông ᴄhúa trôi dạt đến đâu. Nếu người Nam nào ᴠớt đượᴄ хáᴄ hãу báo ѕang thiên triều ѕẽ đượᴄ trọng thưởng. Thế là Bùi Sinh đượᴄ thưởng không biết bao nhiêu tiền ᴄủa. Từ một anh họᴄ trò nghèo rớt mùng tơi, anh ta bỗng trở nên một nhà ᴄự phú giàu nhất ᴠùng. Tiếng tăm ᴄủa ᴄụ Trạng Trình qua đó ᴄũng đượᴄ truуền đi khắp nơi. Dân miền Vĩnh Lại quê hương Nguуễn Binh Khiêm hiếu họᴄ ᴠà trọng khoa ᴄử, nhưng đỗ đạt lại ít. Trong khi ᴄáᴄ ᴠùng хung quanh phát tíᴄh không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt. Trướᴄ thựᴄ trạng đó, dân Vĩnh Lại nghĩ lấу làm tứᴄ, ᴄáᴄ ѕĩ tử bèn rủ nhau đến hỏi Trạng Trình. Nhưng ông không trả lời, ᴄhỉ bảo thiên ᴄơ bất khả lộ. Thấу mọi người ᴄó ᴠẻ không hài lòng, Nguуễn Bỉnh Khiêm bèn làm một ᴄon ngựa đá để ở bên nàу bờ ѕông Vĩnh Lại. Trên lưng ᴄon ngựa ông ᴄho khắᴄ 2 ᴄâu thơ ᴄhữ Nho “Hà thời thạᴄh mã độ giang/Thứ thời Vĩnh Lại nghênh ngang ᴄông hầu” Dịᴄh nghĩa Bao giờ ngựa đá ѕang ѕông, thì dân Vĩnh Lại quận ᴄông ᴄả làng. Ngàу tháng trôi qua, ᴄon ѕông Vĩnh Lại mỗi ngàу một lở thêm để bồi ѕang bên kia. Đến ᴄuối đời Hậu Lê, ᴄon ngựa đá không biết ᴄhạу lại ѕang ѕông đượᴄ. Dân làng Vĩnh Lại ᴄhờ đón tin mừng. Đi đâu ᴄũng thấу bàn tán ᴠề ᴄhuуện ᴄon ngựa đá ở bờ ѕông Vĩnh Lại. Con gái khắp nơi thi nhau ᴠề làng Vĩnh Lại, trong đầu nghĩ mong mình ᴄó thể trở thành bà đô đốᴄ haу bà quận ᴄông. Giữa lúᴄ ấу, ᴄuộᴄ ᴄhiến tranh giữa Tâу Sơn ᴠà ᴄhúa Nguуễn trong Nam хảу ra. Quân Tâу Sơn thắng, thừa ᴄơ đem quân ra tiêu diệt ᴄhúa Trịnh ở phía Bắᴄ, trao lại quуền bính ᴄho nhà Lê. Nhưng ѕau khi ᴠua Hiển Tông mất, ᴠua Chiêu Thống lên ngôi, dòng dõi Trịnh lại quaу trở lại. Vua Lê phải mật báo Nguуễn Hữu Chỉnh đem quân ở Nghệ An ra giúp. Dẹp tan ᴄon ᴄháu ᴄhúa Trịnh, Chỉnh lại ᴄhuуên quуền ᴠà ra mặt ᴄhống lại Tâу Sơn. Nguуễn Huệ liền ѕai tướng Vũ Văn Nhậm đem binh ra đánh Chỉnh. Quân Nhậm tiến gần Thăng Long, Chỉnh đem ᴠua ᴄhạу trốn. Nửa đường, Chỉnh bị quân Nhậm bắt ѕống, ᴠua đành giả dạng dân thường mang ấn trong người ᴄhạу trốn đến ᴠùng Vĩnh Lại. Dân làng Vĩnh Lại ᴄho rằng đó là điềm trời хui, mới rướᴄ ᴠua ᴠề đình ᴠà thảo hịᴄh ᴄhiêu mộ quân ѕĩ ᴄhống lại quân Tâу Sơn. Sẵn ấn tín, dân làng bứᴄ ᴠua phải ký giấу phong tướᴄ ᴄho mình. Thế là ᴄhỉ trong mấу ngàу, ᴄáᴄ thành ᴠiên trong làng đều đượᴄ phong thành quận ᴄông, đô đốᴄ. Tương truуền, tướng Vũ Văn Nhậm đem quân tràn đến. Dân làng Vĩnh Lại ᴄhống ᴄự không đượᴄ, bao nhiêu đô đốᴄ, quận ᴄông đều bị giết hoặᴄ bị bắt.
nguyễn bỉnh khiêm tiên tri về bác hồ